Nhà thơ Anh Chi
(Bản tái bản lần thứ 5)
Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội
1.
Buổi đầu ở với chị Hoàn
Bà nội trao tôi cho chị Hoàn. Trước đây,
tôi ở với bà, bây giờ tôi sẽ ở với chị. Vì đã quen ở với bà rồi, nên đến ở với
chị tôi thấy không thích lắm. Tôi còn thấy khó chịu trong những phút đầu làm
quen với chị. Nhận tôi từ tay bà nội, chị kéo vạt áo ra, đặt tôi vào đấy. Cái vạt
áo bùng nhùng, chị Hoàn thì vuốt ve tôi quá nhiều. Tuy còn bé, tôi thừa biết người
ta chỉ cưng nựng những gì quá yếu đuối thôi. Tôi cố ý trườn tránh những cái vuốt
ve, đến nỗi suýt bị rơi xuống đất. Chị Hoàn lập tức gói luôn tôi vào vạt áo. Tôi
bực không thể chịu được.
May cho tôi, việc bị gói trong vạt áo cũng
không lâu la gì. Chào bà xong, chị Hoàn chạy vào trong nhà, đặt tôi lên bàn.
Thoát khỏi cái vạt áo, tôi đứng, thấy khoan khoái hơn. Bên cạnh tôi có những
quyển vở, quyển sách với những hình vẽ đẹp ở ngoài bìa, tôi nguôi bực ngay. Chị
Hoàn ngắm nghía tôi và khen tôi xinh đẹp. Rồi chị còn kéo một quyển sách dày cộp,
đặt trước mặt tôi:
- Truyện cổ An - đéc - xen đấy, hay lắm!
Tôi không biết đọc, chỉ đặt tay lên quyển
sách. Chị Hoàn cười và liến thoắng kể một đoạn truyện chị đã đọc trong quyển sách
ấy. Lúc đó tôi còn chưa biết gì. Tôi đưa miệng gặm gặm gáy sách. Lập tức, chị
Hoàn nhấc tôi ra xa quyển sách:
- Miu! Không được thế.
Tôi nhìn chị, biết chị nói vậy nhưng không
có vẻ giận dỗi. Chị còn tưởng tôi buồn, nên lại vỗ về tôi. Chị giải thích cho tôi
về việc không được làm hỏng sách vở và về nhiều điều khác mà buổi đầu đến ở với
chị tôi còn không để ý lắm.
*
*
*
Ở với chị Hoàn, dần dần tôi hiểu thêm
nhiều điều. Ông nội chị Hoàn nói rằng ngày xưa sống khổ quá, đến đời chị, thấy
như cuộc sống được bù lại. Hoàn có nghĩa như thế đấy. Mỗi khi có khách đến nhà,
ông hay chỉ cho khách thấy những giấy khen chị được tặng trong những dịp tổng kết
năm học, và lại nhắc chuyện chị được đặt tên là Hoàn có ý nghĩa như thế nào.
Chung quanh tôi là vách nhà, có cửa sổ cho gió mát lùa vào
những ngày nắng nóng, có cửa đi ra sân. Bên ngoài sân là khoảng vườn trồng rau
giền, rau đay và rau mùng tơi, đi len lỏi giữa các luống rau thật dễ chịu. Qua
hết vườn là tới hàng phi lao gió cứ ù ù thổi qua suốt ngày đêm. Bên ngoài hàng
phi lao là bãi cát rộng, rộng tít ra tận biển. Biển thì rộng như chỉ có bờ bên
này không có bờ bên kia. Tôi rất yêu thích bãi cát. Ở đó có những cây phi lao,
lúc hứng lên tôi có thể trèo lên những cành cây, gió như đưa võng. Thường thì tôi
luôn chạy vòng vèo qua những cây phi lao bé, cành lá rậm rì, và nhiều khi cứ muốn
chồm vào chúng nó. Những cái cây ấy, như những mái tóc bù xù ẩn náu một điều gì
mới lạ trong đó chăng? Tính tôi hay tò mò, có lúc đã nhảy chồm lên cái đầu bù xù
của cây, bị những chùm lá nhòn nhọn dụi cả vào mặt. Nhiều khi chị Hoàn phải đi
tìm tôi. Đôi lúc chị hớt hải gọi váng lên:
- Miu! Miu!...
Tôi vẫn còn nhảy chồm vào một cây phi
lao rối tung, thấy một cái gì kêu “vù”, vút qua bên tai.
- Miu!
Tôi đang ngơ ngác thì đã bị đôi bàn tay quen thuộc của
chị Hoàn tóm lấy.
- Chim sâu đấy.
- …
- Nó đi bắt sâu đấy mà!
Tôi lại bị đặt vào vạt áo để vào nhà. Tôi
không thích đi kiểu ngồi trên vạt áo tí nào cả. Nhưng nếu cựa quậy một chút, sẽ
bị gói lại luôn.
Chị Hoàn đặt tôi lên bàn ăn cơm, rôi bảo:
- Miu, ăn cơm đi.
“Nó bay vù lên, ghê thật” – Tôi vẫn còn nghĩ về con
chim sâu.
- Này, ăn đi, cá đây thôi.
Tôi vẫn còn muốn ngoái đầu nhìn ra bãi cát, những cây
phi lao, gió thổi.
- Miu còn muốn tập dượt nữa cơ à?
“Tập dượt. Chả biết con chim sâu nó thế
nào?”
- Thôi, ăn đã, rồi mai phải có kế hoạch cho Miu tập dượt,
nhé.
Cũng phải ăn thật, cá rất ngon.
2.
Tập dượt - Điều quan trọng
Quả thực, tập dượt thích hơn xem con
chim sâu nhiều. Hàng ngày chị Hoàn đều đặn đưa tôi ra bãi biển. Chị cũng thích
bãi biển như tôi.
Cát bay mù lên dưới gót chân chúng tôi.
Chị Hoàn cười như nắc nẻ khi tôi làm sai một động tác gì đó, như vồ trượt một
chiếc lá cây chị ném cho tôi chẳng hạn. Chị cười, làm tôi thấy phải cố gắng hơn.
Chỉ tiếc rằng tôi không thể nào khiến chị ấy hiểu là tôi không thích nằm trên vạt
áo để đi về nhà sau mỗi buổi tập.
Có một lần, tôi đã gặp lại con chim sâu.
Tôi vừa lao vào một bụi cây, nó bay vù lên.
- Chim sâu đấy. Miu làm nó sợ rồi.
“Sao nó lại sợ mình?”. Tôi muốn lao lên
theo, nhưng chỉ nhảy lên được một cành cây gần đó. Cành cây tôi nhảy lên cao
ngang tầm vai chị Hoàn. Tôi vẫn nhìn theo hướng con chim sâu vừa bay đi, quên cả
cành cây đang đu đưa rất mạnh.
- Khá quá! Nào, nhảy lên cành trên nữa đi.
Nhảy lên cành trên, khó gì. Phóc một cái, tôi nhảy lên.
- Hay lắm. Miu tiến bộ lắm!
“Chim sâu nó bay đi rồi. Sao nó lại sợ mình nhỉ?”
- Này, này, nhìn đi đâu đấy? Tập nữa đi
chứ.Vờn quả cầu nhé.
Chị hoàn nói thế, rối bắt tôi tranh nhau
với chị một gói giấy màu xanh, đỏ. Gói giấy mà chị chị gọi là quả cầu bị buộc vào
một đầu dây, đầu dây kia chị cầm lấy, để mỗi khi tôi lao vào tóm quả cầu thì chị
giật phắt đi. Tôi bực, quên ngay chuyện con chim sâu, liên tiếp chồm vào quả cầu
xanh, đỏ. Cát bay mù mịt, tôi càng quyết chí, cũng bị vồ trượt đến mười mấy lần.
Có lần tôi mất đà, ngã lăn lông lốc. Chị Hoàn nhìn tôi với vẻ xót thương. Vụt một
cái, tôi đã bắt được quả cầu bằng cả hai tay và miệng. Tôi ngoạm chặt quả cầu,
chạy tuốt đi luôn. Chị Hoàn cười rất vui, cứ như chị là người chiến thắng chứ
không phải tôi. Tôi chạy xa thêm. Chị Hoàn cười vang, đuổi theo. Tôi thích quá,
chạy liền một mạch về nhà, nhảy tót ngay lên bàn, coi như để tỏ cho chị biết rằng
tôi không cần đi bằng vạt áo của chị ấy nữa. Chị Hoàn chăm chắm nhìn tôi, nghiêm
trang nói:
- Đã đến lúc Miu phải làm việc quan trọng hơn.
- …?
- Phải bắt được chuột.
Bọn chuột thì tối nào tôi cũng đã làm
cho chúng phát khiếp lên đấy thôi. Cứ hễ nghe tiếng tôi là chúng nó đã lút chút
rủ nhau bỏ chạy. Tưởng việc gì, việc ấy thì tôi làm thừa sức.
- Bắt được chuột, Miu nhé, như thế mới tỏ ra đã cứng cáp
chứ.
Bây giờ có thằng chuột nào chạy ra là tôi
sẽ chứng minh cho chị Hoàn biết tôi đã cứng cáp cho coi.
- Thế nào, làm được chứ?
Bực quá. Chả thấy thằng chuột nào. Sao chúng nó trốn đi
đâu hết thế.
- Thế nhé! Phải bắt được chuột đấy!
*
*
*
Đối với tôi, việc bắt chuột chỉ là việc
bình thường. Cũng như chị Hoàn quét nhà, nấu cơm, rửa bát đũa và đi học. Mọi người
đi kiếm cá, trồng khoai. Tôi thì đuổi bắt lũ chuột. Dù còn bé, tôi đã cảm thấy
phải như vậy.
Có điều, đây là lời thách thức của chị
Hoàn. Bởi thế, suốt cả tuần tôi không thích gặp mặt, nói chuyện gì với chị Hoàn.
Ngay cả bữa cơm tôi cũng chỉ ăn qua quýt, tránh cái nhìn nhắc nhở của chị. Bây
giờ mới thấy việc chị Hoàn hy vọng ở tôi không đơn giản như tôi tưởng. Tôi đã
quá hấp tấp trong ngày đầu. Ngày thứ hai, thứ ba, ngày thứ tư nữa, tôi vẫn còn
hấp tấp. Hễ nghe tiếng chút chít ở đâu, tôi lập tức xông tới liền. Mọi việc hỏng
cả. Bọn chuột chúng nó trốn nhanh như kẻ trộm.
Tôi thấy cần phải cân nhắc cẩn thận. Ngày
thứ năm, tôi cuộn tròn mình bên chân bàn, nhìn chăm chú vào góc nhà có để mấy
thúng khoai. Nhìn, nhưng tôi lại làm bộ rất lơ đễnh. Nhiều lân tôi tự nhắc mình
không được nóng vội. Thằng chuột đang còn trong tư thế xây lưng lại phía tôi, cái
tư thế sẵn sàng bỏ chạy. Thế là chưa được. Bao giờ nó đang chúi mõm xuống đất,
tốt nhất là nó đang hướng về phía mình. À, thằng cộc đuôi kia rồi, nó bắt đầp táp
táp cái mõm háu ăn xuống nền nhà, háu ăn đến nỗi quên cả rung rung đôi tai. Đấy,
nó táp táp cái mõm nhọn. Nhưng, bỗng có tiếng chị Hoàn:
- Miu…
Tôi vội tung mình lao tới. Nhưng hỏng rồi.
Hai tay tôi chỉ vừa chạm vào cái đuôi cộc của nó.
- Đâu rồi? Miu…Lại đây mà.
Lúc này tôi không thích chị Hoàn một tí nào.
Tôi lẳng lặng bỏ đi. Tôi chẳng thiết ăn
cơm đâu mà chị gọi. Chị chả hiểu tí gì cả. Để tỏ thái độ với chị, bữa cơm chiều
tôi cũng không ăn. Chị không biết là tôi không ưa sự ồn ào trong công việc.
Cho đến chiều tối ngày hôm sau thì tôi tóm
được chính thằng cộc đuôi ấy. Tôi thèm gì tóm đằng đít. Tôi tiến công thẳng từ
trước mặt nó. Cũng thừa nhận là nó rất khoẻ. Đòn đánh của tôi là dùng hai cặp
vuốt chộp vào gáy và lưng nó. Thế mà suýt nữa nó vùng chạy thoát nếu tôi không
dùng ngay cả đôi nanh của mình.
Tôi định bụng sẽ khiến cho chị Hoàn coi
việc tôi vừa làm chỉ là chuyện thường thôi, nên để xác tên chuột đó, chị Hoàn tự
hiểu rõ sự việc. Nếu như chị tìm tôi về, khen ngợi, tôi cũng chả xúc động lắm đâu.
Định thế, nhưng tôi vẫn nóng lòng chờ chị
Hoàn. Chị về đến nhà thì chiều đã thật muộn, muộn hơn mọi hôm nhiều. Chị vội vàng
đi tìm tôi ngay. Vẫn tóm tôi từ ngoài sân, cho tôi ngồi lên vạt áo để đi vào nhà.
Tôi làm ra vẻ thản nhiên, bất cần, để chị tự thấy việc tôi vừa làm. Nhưng thật
ra lòng tôi rất hồi hộp. Chị Hoàn sẽ nói gì? Chị sắp sửa nói điều gì khác lạ lắm.
Và chị nói:
- Miu biết không? Có chuyện quan trọng đấy.
“Quan trọng! Con chuột thì có là gì”
- Chiến tranh rồi đấy
“Chiến tranh?”
- Sao Miu vẫy tai ghê thế, sợ à?
“Sợ?...”
- Không sợ Miu ạ. Ông và bố sẽ làm hầm
trú ẩn cho bọn mình, chỉ cần dũng cảm là chả sợ gì hết.
“Tôi chả sợ gì hết. Nhưng chiến tranh là gì?”
- Máy bay Mỹ nó đến…
“Bay à, giống chim sâu ấy à?”
-Là chúng mình phải vào hầm trú ẩn. Hôm
nay thầy giáo phổ biến rồi đấy. Học hành, hay làm gì cũng trong hầm trú ẩn. Đi đâu
đó cũng đi dưới đường giao thông hào. Sẽ chẳng được đi chơi nhiều lắm nữa đâu.
Miu biết không, quê ta miền biển nên càng gay go hơn…
3.
Quê ta miền biển
“Quê ta miền biển…” - Chị Hoàn nói thế đấy.
Một câu nói bình thường, nghe mà tự dưng cảm nhận được nhiều điều. Có bãi cát.
Có những thuyền, mảng dân làng vẫn thường dùng để ra khơi. Có bờ cây phi lao chắn
gió, cát cho làng. Lại có một biển nước rộng mênh mông với muôn vàn các loại cá,
tôm cho dân làng đánh bắt để sinh sống. Ở làng quê ta, nhìn về phía mặt trời lặn,
thấy núi tím xa mờ. Chị Hoàn hay đọc sách, gọi đó là miền rừng núi. Mặt trời mọc
từ biển lên, đi qua ngọn phi lao, đi qua những nóc nhà, đi mãi đến chiều tối mới
tới miền rừng núi…
Tôi đang nghĩ miên man về miền núi với mặt
trời, thì chị Hoàn gọi:
- Miu, lên giường đi ngủ.
Tôi lên giường. Bao giờ tôi cũng lên giường
một lát để chị Hoàn yên tâm ngủ. Rồi tôi lại xuống chỗ chân bàn với công việc của
mình, canh chừng bọn chuột. Nhưng đêm nay, chị Hoàn không ngủ được ngay. Chị cựa
quậy suốt, thỉnh thoảng còn ngồi dậy, nghe ông nói chuyện với bố. Ông và bố nói
chuyện rất lâu. Chuyện về vùng Hàm Rồng, Nam Ngạn và những vùng xa lạ nào đó đã
có chiến tranh thực sự. Chuyện mai kia ra khơi, sẽ mang theo cả súng đạn. Chuyện
về làm hầm hào. Rồi chuyện về đảo Hòn Mê. Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến cái
tên đảo Hòn Mê.
Chị Hoàn quậy cựa mãi, có lúc ngồi lên
ngóng ra chỗ ông và bố, làm cái giường kêu ọt ẹt. Bọn chuột bỏ chạy hết. Lúc lâu
sau, chị lẹp kẹp đi đôi guốc mộc ra chỗ ông và bố, hỏi:
- Mai kia bố vẫn đi khơi, vẫn ghé vào đảo chứ ạ?
Tôi tự hỏi: “Đảo là chỗ nào nhỉ?”
- Ừ, đảo của mình, không ra sao được.
“Là của mình”
- Bộ đội ngoài đảo có nhiều súng không hả bố?
- Nhiều. Thôi, ngủ đi con.
Người lớn cứ hay như thế đấy. Cứ tưởng
chúng tôi không cần phải quan tâm đến những công việc mà họ nghĩ rằng quá xa,
quá to tát so với chúng tôi. Thực ra, những việc ấy đều là của chúng tôi. Tất cả
mọi sự trên đời đều ảnh hưởng đến chúng tôi cơ mà. Dù sao thì chị Hoàn vẫn phải
lên giường đi ngủ. Ông và bố còn thức nói chuyện một lúc lâu nữa.
Bãi cát ngoài kia sáng ngời ngời. Trăng
lên cao. Từ chỗ tôi ngồi, nhìn thấy trăng qua khung cửa sổ. Ông trăng đậu trên đỉnh
cây phi lao cao nhất. Những cành cây đan chéo vào nhau, trông rất rõ. Nước biển
ngoài xa đôi chỗ sáng loé lên. Gió biển thổi lên mạnh hơn, thổi tắt cả ngọn đèn
dầu. Ông và bố không thắp lại ngọn đèn nữa. Khuya lắm rồi. Bố lấy cái quạt phẩy
quẹt quẹt xuống nền nhà, chỗ trước cửa, ngả lưng xuống, vắt tay lên trán.
Ông vẫn thức. Mọi hôm ông thường thức
khuya. Ông thức đến lúc gọi mẹ dậy luộc khoai cho người đi biển mang theo ăn trên
đường ra khơi. Mọi đêm ông hay lục cục việc này việc nọ, như thít chặt thêm mấy
cái phao trên mép lưới hay ra bãi kiểm tra dây lèo cột buồm. Đêm nay ông ngồi yên,
hút thuốc lào nhiều lần. Những lần lửa đóm loé lên, tôi thấy da mặt ông đỏ ghê
lắm, đỏ giống như màu mai cua chín. Trán ông cộm lên những nếp nhăn to tướng. Ông
tên là Vược, đã nhiều năm trời dọc ngang trên biển cả. Bây giờ chắc ông đang
nghĩ lại tất cả những gì ông đã trải qua. Người già nghĩ ngợi hay cau trán lắm.
Tôi mon men đi lại gần ông, dụi đầu vào chân ông để ông dịu lại tí chút. Nhưng ông
nhấc tôi lên, đặt ra góc bàn.
Tôi nhảy xuống đất, đi lại bên giường chị
Hoàn. Chị ấy đã ngủ rồi. Ngủ đi một giấc để hôm sau mà đi học chứ. Những ngày
tiếp theo sẽ còn ối chuyện mới.
*
*
*
Những ngày tiếp theo, chị Hoàn vẫn đi học
bình thường.
Một hôm đi học về, chị bắt đầu đan mũ rơm.
Cái mũ to cộ, dày cộp. Chị còn bảo là tôi cũng nên đội loại mũ ấy.
- Để mà chống bom bi.
“Bom bi là cái gì mà phải chống?”
- Bi sắt nó bắn vào cái đầu này này.
“Đầu tôi cứng. Sợ gì”
- Lại ngại vướng víu chứ gì. Thế thì phải ngồi trong hầm
suốt đấy nhé.
Ông và bố đã làm một cái nhà bằng đất ở
ngay mé sân. Đó là căn hầm trú ẩn. Chị Hoàn bảo
-
Miu yên tâm trong
đó nhé.
Mẹ đã mang vào hầm những thúng cá khô,
thúng khoai, tôi ở đó là để làm việc. Những lúc ông chui vào thì phải cúi lom
khom, rất khó khăn. Chị Hoàn dặn tôi hễ nghe tiếng súng thì phải vào hầm, đừng
la cà bên ngoài nữa và đừng giật mình. Tôi có ý chờ xem tiếng súng như thế nào.
Bố đã đem về một khẩu súng. Đêm đêm đi
khơi, lúc khiêng lưới đều khoác luôn cả súng theo. Tôi hay thức khuya nên thấy
hết những lần như thế. Cái súng va vào đòn khiêng, va vào phao lưới, va cả vào
chân người lốp bốp.
Hàng ngày, vào những lúc chị Hoàn rảnh rỗi,
chúng tôi vẫn ra bãi cát tập dượt. Chị có
ý bắt tôi tập nhiều hơn. Tôi khoẻ lên rất nhanh, đã có thể nhảy gọn gàng từ cành
phi lao này sang cành phi lao khác gần đó, và nhảy được từ mảng thuyền này sang
mảng thuyền khác. Cả một dãy dài những mảng thuyền vẫn xếp dọc ven bãi biển. Tôi
leo được lên cột buồn. Chị Hoàn rất khoái chí, liên tục vỗ tay hoan hô tôi. Chị
bảo tôi nhìn ra phía khơi xa xem có thấy gì không. Tôi nhìn ra biển xa, gió thổi
vào tai tôi ù ù, thổi vào tai tôi quá nhiều.
- Có thấy đảo không?
“Đảo nổi trên mặt biển kia chứ gì. Đứng dưới mặt đất cũng
thấy cơ mà”
- Thấy không? Thấy bộ đội không?
Gió thổi có phần mạnh hơn. Cây cột buồm rung như sắp đổ
đến nơi.
- Bộ đội mặc áo xanh, có súng ấy
- …?
- Trong truyện ông An - đéc - xen gọi là lính ấy.
Tôi chả hiểu gì. Đã bảo là tôi không được học hành mà
lại.
Chị Hoàn có vẻ buồn. Những ngày sau, mỗi
lần ra bãi biển, chị Hoàn đều khuyến khích tôi leo cao thêm lên cây cột buồn. Làm
như lên cao nữa thì có thể thấy được lính đảo giống như lính trong sách truyện
chị ấy hay đọc ấy. Mỗi ngày tôi đều leo cao hơn một chút. Nhìn ra khơi xa, thấy
đảo xanh mờ và rất yên lặng trên biển cả. Nhìn vào làng, qua rặng phi lao, thấy
nhà cửa, những vạt cát sáng loá in dấu chân người, những vằng lưới phơi lấp lánh
vẩy cá…
Để nhìn cho thoả chí, tôi có thể trèo lên
cao hơn cả đỉnh cột buồm nữa kia, mặc kệ cho gió cứ lay rất mạnh.
- Miu! Miu ơi!
Chị Hoàn gọi giật giọng khiến tôi giật mình.
- Miu, nghe thấy không?
-…?
- Xuống đi, xuống đi, nhanh lên nào! Máy
bay đấy. Nghe thấy không, nghe thấy chưa?...
Tôi nhảy phóc xuống, đứng cạnh chị Hoàn.
Gió từ ngoài khơi vẫn thổi vào ào ạt. Tôi lắng nghe, có tiếng ầm ì. Tiếng ầm ì
xa xôi, đâu như ở mãi tận chân trời ấy, khác hẳn tiếng sóng biển đã thân thuộc
với tôi từ ngày còn bé.
4. Ý muốn của
chị Hoàn – Lên đường
Chị Hoàn được lên một lớp nữa. Mọi người
đều phải công nhận như vậy, vì chị còn được cả giấy khen. Tôi bắt được thêm một
số con chuột, khi chúng mon men vào ăn trộm cá khô và khoai, nhưng mà chả cần kể
công làm gì. Có đến bốn, năm lần máy bay Mỹ ào qua mái nhà. Những lần ấy chị Hoàn
kéo tôi ra hầm trú ẩn. Chỉ nghe tiếng kêu gầu gầu, và những tiếng nổ ục ục trên
trời, xa lắm. Lần thứ sáu chúng bay rất thấp, tôi cũng nhìn thấy. Lúc đó tôi ngồi
ở ngay cửa hầm. Tất nhiên là chúng nó lớn hơn chim sâu nhiều. Chúng nó có hai đứa,
bay xoẹt một cái. Có nhiều tiếng nổ trong làng. Chị Hoàn bảo đó là súng của ta
bắn lên.
Kể ra tiếng gào của chúng cũng to thật.
Nhưng chị Hoàn giật mình chứ tôi thì không. Tôi ngồi trên lòng chị áy, nên biết,
trống ngực chị đập dồn lên ghê lắm. Nhưng khi hết báo động, đi vào nhà, chị Hoàn
đã cười được ngay. Nghe đâu hôm đó ngoài đảo Mê đã đánh nhau với tàu bay Mỹ. Cả
làng nóng ruột chờ thuyền về để hỏi chuyện. Thuyền về muộn, mãi tối mịt tất cả
số thuyền của làng đi khơi hôm đó mới về đủ. Ai cũng nói với nhau về đảo Mê. Đảo
đã bắn rất mạnh lên tàu bay Mỹ. Hôm sau, những thuyền đi khơi đều lấy thêm cá,
thịt, rau, để mang ra đảo.
Từ đó thành lệ, mỗi thuyền đi khơi đều
mang theo một ít quà gì đó cho lính đảo. Càng ngày người làng càng hay nói với
nhau những chuyện về đảo Mê. Đường làng đã thành giao thông hào. Tôi rất ngại
kiểu đi giữa hai vách đất ấy. Nhiều khi đi học về, quần áo, tóc tai chị Hoàn dính
đầy đất cát. Chị bảo, sắp xong đợt lao động rồi, thể nào cũng có việc phải làm.
Việc của riêng chúng tôi chứ không phải những việc mà người lớn hay làm. Việc gì
nhỉ? Tôi có ý chờ.
Chờ lâu rồi cũng đến lúc biết. Một buổi
chiều, bọn tôi ra bãi biển. Trông chị Hoàn có phần nghiêm trang hơn mọi khi, đưa
tôi đi hết bãi cát rồi mà vẫn còn cứ xăm xăm bước tiếp. Tôi ngồi trên đôi tay
chị Hoàn, thấy nước biển ào ào cuộn bên chân chị, ngay phía dưới tôi. Chao ôi,
nước cuốn ào ào, bọt bắn tung lên!
- Đừng sợ, Miu dũng cảm cơ mà. Chị muốn
gửi Miu ra ngoài đảo ở với các anh ngoài ấy đấy.
Thế là tôi biết rõ ý muốn của chị, là đã
hiểu cái việc phải làm mà chị nói mấy hôm trước.
*
*
*
Chị Hoàn bước vào một năm học mới thì tôi
lên đường. Chị đã thu xếp mọi việc, từ bàn bạc với ông, viết một bức thư gửi
theo tôi ra đảo Hòn Mê. Chị bảo, nhất định phải thế mới được. Ông cũng đồng ý và
thu xếp cho tôi đi theo thuyền của ông, và ông hứa sẽ tận tay trao tôi cho các
anh ngoài đảo.
Tôi mặc một bộ quần áo. Đó là chiếc khăn
trùm đầu mùa đông năm ngoái của chị Hoàn. Chị tự tay cắt, may rất công phu. Chị
Hoàn mặc bộ quần áo đẹp, thắt khăn quàng đỏ cẩn thận, ra tận bến thuyền để tiễn
tôi. Tôi đứng ở mũi thuyền, mắt không lúc nào rời chị. Mắt chị cũng không lúc nào
rời tôi. Khi thuyền rời bến, chị Hoàn còn chạy thêm nhiều bước xuống mép nước,
cởi khăn quàng đỏ ra, phất mạnh lên và nói: “Lên đường, Miu lên đường nhé!”.
Tôi chỉ nhìn mà không nói được, chỉ thấy
thuyền lướt đi quá nhanh. Chị Hoàn cứ lùi xa quá nhanh. Từng đợt, từng đợt sóng
dâng lên, sóng ngăn mất lối mắt chị em chúng tôi nhìn nhau. Tôi trèo lên dóng
ngang cột buồm để chị nhìn thấy tôi. Tôi thấy chị vẫy vẫy khăn quàng đỏ, mỗi lần
vẫy một cái chắc chị có kèm theo một câu nói “Miu lên đường!...” Tôi leo thêm một
đoạn nữa trên cột buồm. Lá buồm trên đầu tôi căng phồng, phần phật gió. Chị
kia, hình như chị khóc. Tôi thấy chị đưa tay quệt ngang mắt, còn tay kia cứ phất
cái khăn mãi…
Tôi thấy chị Hoàn đã ở rất xa, sẽ ở xa tôi
ghê lắm. Biển rộng vô cùng. Ông nói gì với mấy bạn chài trên thuyền, tôi nghe
loáng thoáng đâu như đã ra được ba sải nước rồi. Tôi trèo lên cao tít trên cột
buồm, những muốn từ xa chị Hoàn vẫn trông thấy tôi. Tôi, em của chị đây, chị phải
thấy chứ. Ngày tôi còn yếu ớt chân tay, chị thường đặt tôi lên vạt áo của chị.
Bây giờ, tôi ở đầu này của biển, chị ở đầu kia của biển. Khoảng nước giữa hai
chị em cứ mênh mông mãi ra, đẩy chị ra xa tôi nhanh quá.
Những bạn chài trên thuuyền nói với nhau
là đã ra được năm sải nước. Rặng phi lao phía bờ bãi làng tôi chỉ còn cao hơn đỉnh
sóng một chút. Biển xanh là một cái kỳ lạ nhất trên quả đất này, mỗi người đi
biển đều phải công nhận điều đó. Càng đi ra biển khơi, người ta càng thấy biển
rộng hơn. Nhưng tôi biết có cái còn kỳ lạ hơn, đó là tình người. Vì thế mà tôi
còn thấy được chị Hoàn, đâu đó nơi xa tít tắp kia, đang đứng vẫy khăn. Sau này,
có biết bao lần tôi còn thấy lại hình ảnh chị khi ấy. Biển xanh, cát trắng, tấm khăn đỏ chị phất
lên như tia lửa. Sau mỗi tia lửa chắc là có lời nói của chị Hoàn: “Miu, lên đường,
lên đường, đi tới Hòn Mê!...”
5.
Đảo - Buồm nhỏ
Ngay khi thuyền ghé vào chân đảo, tôi thấy
trước mũi thuyền có một bãi cát giống bãi cát quen thuộc ở làng tôi. Cũng có rặng
phi lao viền theo bờ cát, y hệt rặng cây chắn gió của làng. Ngay tiếp đó là lối
đi, dốc cao lên. Theo lối ấy đi lên sẽ là rừng và núi.
Ông chưa cho tôi lên đảo ngay. Ông gọi mấy
anh ra đón thuyền tới gần, nói với họ điều gì có vẻ hệ trọng. Tôi cảm thấy ông
nói về tôi vì loáng thoáng có tên tôi trong câu chuyện. Mấy anh đều cười, rồi
chạy xô về phía tôi. Nhưng ông ngăn lại:
- Khoan, các chú xem cái này đã.
Đó là bức thư của chị Hoàn. Một anh đọc,
mấy cái đầu đội mũ sắt chụm vào đọc theo. Ngay sau đó các anh chạy ào xuống đón
tôi.
- Hay quá nhỉ.
- Ồ, xinh quá.
Các anh còn chưa biêt tôi không thích người
ta khen tôi xinh. Nhưng ngay lúc ấy một anh đưa hai tay đón tôi, nói:
- Thế là đảo ta có thêm một người lính!
Tôi bằng lòng ngay. Lính! Nói như thế tốt
hơn. Tôi lên đảo để làm lính, chị Hoàn bảo như thế. Tôi thấy một niềm xúc động
mới mẻ từ những anh lính đang tràn sang tôi. Anh nào cũng hồ hởi, khoẻ mạnh. Tôi
sẵn sàng đi theo các anh. Nhưng khoan một chút, tôi chạy vụt về phía ông, nhảy
lên lòng ông.
- Miu, Miu!...
Ông đưa bàn tay thô ráp vuốt đầu tôi, vuốt
dọc sống lưng tôi. Tôi rưng rưng khắp cả người. Tạm biệt ông.
- Thôi, đi với các anh đi, Miu.
Tôi dụi cả người vào lòng ông một lần nữa, chào ông.
Những người lính chào ông, gửi lời chào đất
liền, gửi lời cảm ơn chị Hoàn đã cho tôi đi làm lính đảo. Chúng tôi bắt đầu đi
lên đảo. Đường đi dốc dốc. Tôi ngồi trong chiếc mũ cứng nồng mùi mồ hôi. Một
anh lính đỡ bàn tay dưới cái mũ tôi đang ngồi, áp vào ngực anh. Tay kia của anh vẫn cứ bắt tay tôi, lắc lắc theo nhịp đi.
Tôi nhìn ra hai bên đường. Cây lá rậm rạp.
Nhiều cây có cành xoắn vặn, ngoằn ngoèo. Hoa sim nở tim tím. Hoa dẻ thơm quanh
quất đâu đó. Có tiếng hót lảnh lót và trong vắt của một loài chim gì. Tiếng hót
của chim này ít thôi. Chỉ nhiều tiếng “gù ghì” của một loài chim đậu rất gần bên
lối chúng tôi đi qua. Một bên là vách đá, bên kia thăm thẳm biển dưới chân. Các
anh lính nhìn xuống biển, trật mũ ra vẫy theo đoàn thuyền của ông đang rời đảo để
về đất liền. Ông và mọi người dưới thuyền vẫy vẫy tay. Anh lính nâng cao cái mũ
tôi đang ngồi. Tôi cố nhoài người ra thật nhiều, để chào ông, cũng là chào chị
Hoàn. Tôi nhớ chị Hoàn vô cùng. Bờ bãi làng tôi xa quá rồi. Biển ở sâu dưới chân
đảo kia đã nhuốm màu ráng chiều, vàng rực. Những lá thuyền, trong đó có cả lá
thuyền của ông nữa, khe khẽ đi trong vầng biển vàng rực lóng lánh ấy. Những lá
buồm phồng lên, nhuộm nắng chiều, vàng như lửa. Hãy chở lời tôi về làng nhé. Tôi
đi làm lính đây…
Tôi đang gắng ngóc cao hơn vành mũ, cái
mũ mà anh lính đã vươn tay giơ cao lên quá đầu anh, thì có tiếng reo thốt lên của
một anh lính khác:
- Đẹp chưa kìa. Ngân ơi, các cậu ơi, đẹp quá…
Tôi
quay lại nhìn, thấy anh lính vừa nói vừa chỉ tay về phía tôi, các anh khác đứng
cách tôi một quãng cũng hướng về phía tôi. Anh lính kia vẫn nói:
- Thấy không, các cậu thấy không. Cái mũ
của thằng Ngân in lên bầu trời, còn “cái cậu” kia vươn cao lên, y hệt một con
thuyền con có lá buồm con. Thấy chưa, lông “cu cậu” màu hung hung vàng, nắng làm
cho nó vàng ửng lên…
- Ừ, đẹp. Thích quá nhỉ
- Giống đấy…
Mấy anh lính khác đều tán thưởng. Anh Ngân
cũng ngước lên nhìn cái mũ của anh, nhìn tôi . Tay
anh cố vươn hết cỡ, đưa tôi cao thêm lên. Tôi nhìn xuống, thấy anh Ngân có đôi
mắt rất to, và tôi nhìn thấy trong mắt anh có hình tôi trên chiếc mũ. Hình ảnh
tôi trong mắt anh bé tí xíu, hơi rung rung in vào một khoảng trời xinh xắn và có
vẻ xa xôi…
Đột nhiên, anh Ngân hạ tôi xuống thật
nhanh, ghì vào ngực. Anh nói, giọng rất cảm động:
- Ui! Giống lắm, Buồm Nhỏ!...
Lúc đó tôi chưa biết rằng đây là giờ phút
tôi có một cái tên để người ta gọi. Một cái tên giữa những tên gọi khác trong
cuộc đời. Tôi chỉ thấy những anh lính đảo thật đáng yêu.
*
*
*
Con đường vẫn dốc lên, đi sâu vào rừng núi
to lớn. Những loại cây mới, những âm thanh của nhiều muông thú mới, liên tiếp
hiện ra, vang lên hai bên đường. Tôi thấy ngỡ ngàng, nhưng tôi cũng nghĩ, rồi sẽ
dần quen tất cả.
Anh Ngân là người đầu tiên công nhận tôi
là lính, là người đỡ tôi đi suốt cả chặng đường đầu tiên trên đảo. Lên đến khu
trung tâm, vào một căn nhà, có bàn ghế hẳn hoi, anh vẫn giữ tôi ở trước ngực
anh. Đảo trưởng đi ra, hỏi han các anh lính một số điều. Anh Ngân đưa lá thư chị
Hoàn gửi ra. Đảo trưởng bắt tay tôi ngay, lắc lắc rất dịu dàng. Tôi nhận ra rằng,
trên đảo này toàn là lính thôi. Các anh ăn mặc giống nhau, kiểu đi đứng, điệu bộ
rất giống nhau.
Lần đầu tiên trong đời, tôi được dự một
cuộc họp, lại là cuộc họp của những người lính. Trước tiên, đảo trưởng giới thiệu
tôi với mọi người. Ai cũng chìa tay ra với tôi. Tôi được bắt tay khắp lượt. Lúc
sau, đảo trưởng bắt đầu đọc lá thư của chị Hoàn. Trong thư có đoạn tôi rất cần
ghi nhớ: “Miu sẽ tiêu diệt hết bọn chuột trên đảo. Như thế cũng là góp phần đánh
giặc Mỹ…”
Tất nhiên, tôi rất thích đoạn ấy. Nhưng
có đoạn nghe có vẻ buồn cười quá: “Miu siêng năng nhé. Ăn uống chớ có tham lam.
Đừng làm nũng các anh. Có nhớ nhà thì xin phép về mấy hôm, rồi lại ra…”.
Buồn cười quá đi ấy chứ, nên mấy anh lính
cười ồ lên. Tôi phải chúi đầu vào ngực anh Ngân, cho đỡ ngượng. Anh Ngân thì lúc
lúc lại cúi xuống nói với tôi:
- Buồm Nhỏ. Ồ, Buồm Nhỏ…
Căn nhà của những người lính dựng tựa lưng
vào vách núi. Buổi tối, cây rừng chung quanh đem sẫm. Ngoài xa hơn, cả bốn bề đều
có tiếng sóng vỗ và tiếng gió thổi. Những anh lính ngồi nghiêm chỉnh. Ánh đèn rọi
vào những gương mặt rắn rỏi. Tất cả bàn về phương án tác chiến ngày mai.
Tôi hồi hộp mong đợi ngày mai.
6.
Anh Ngân
Tôi thân với anh Ngân ngay từ phút đầu gặp nhau. Những ngày sau lại
càng thân hơn. Thứ nhất, anh Ngân là người được giao nhiệm vụ giữ gìn, quản lý
kho tàng trên đảo. Tôi rất có khả năng để giúp anh trong công việc này. Thứ
hai, anh là người quê miền rừng núi, nơi tôi chưa hề biết đến; tôi sẽ được biết
miền quê đó qua nũưng câu chuyện anh kể cho nghe. Thứ ba, anh Ngân còn rất trẻ,
trẻ gần bằng chị Hoàn ấy.
Qua anh, tôi mới biết về nhiều loại cây đã
đến sống trên đảo Mê này từ lâu rồi. Mua và sim là loài cây bụi có khả năng chịu
nắng nóng, khô hạn rất cao, cho hoa hồng tím thật đẹp, mọc rất nhiều trên đảo Mê.
Thích nhất là sim cho quả chín tím lịm, “ăn ngọt lừ” – anh Ngân bảo thế. Hoa dẻ
nữa, chịu khô hạn rất giỏi mà mùi hương thật êm mát. Cây phong ba cũng khá đặc
biệt, “phong” nghĩa là gió còn “ba” nghĩa là sóng, phong ba mọc trên đảo bốn
bề gió to sóng lớn mà sống rất kiên cường. Cây sống được trên đảo phải có đặc tính
của loài cây gỗ rắn và lớn, chịu đựng được nhiều gió bão và sương muối. Cây đặc
biệt nhất trên đảo Mê, là cây sang sang, cành xoắn vặn trông rất khắc khổ, nhưng
rất kiên cường trong sương biển mặn và giông bão. Ngay trước cửa nhà tôi và anh
Ngân cũng có một cây khá lớn.
Bây giờ đúng dịp vào thu. Cây sang sang
có những chùm lá đỏ chói. Loài chim cu ghì hay đến đậu trên cành sang sang và hót
“gù.. ghì…”. Giọng chim buồn buồn. Mấy lần tôi định vọt lên đuổi nó đi, nhưng
anh Ngân nói:
- Nó là bạn của lính đấy.
“Tôi chỉ thấy nó kêu buồn buồn thôi mà”
- Ở đây xa vắng nhiều thứ quá. Nó kêu thế
là gợi nhớ nhà, nhớ quê đấy. Mà có biết nhớ quê nhà thì mới biết mình ở đây để
chiến đấu bảo vệ quê nhà chứ.
- …
- Buồm
Nhỏ chưa rõ lắm phải không? Ở đây lâu rồi sẽ hiểu thôi mà. Có khi nỗi buồn cũng
là một bạn tốt đấy.
Thỉnh
thoảng anh Ngân hay tâm sự với tôi.
- Nghe người ta kể nhé, Buồm Nhỏ…
“Anh kể đi, không cần vuốt vuốt tai tôi,
tôi vẫn nghe rõ”
- Ở quê người ta mùa này có nhiều loại
quả chín.
“Tôi chỉ nhớ những món cá chị Hoàn vẫn
cho ăn”
- Có nhiều loài chim hót hay, giọng
trong vắt, khắp cả mọi phía rừng. Chim đến ăn quả chín, vừa hót, vừa múa. Đẹp lắm.
Tôi nép mình sát vào bên anh.
- Có lẽ kỳ này máy bay Mỹ cũng mò đến quê
người ta rồi đấy. Buồm Nhỏ biết không, hôm kia đài đã nói mà.
“Hèn gì ngày nào chúng cũng bay vè vè vào phía đất liền”.
- Cứ ngồi bó giò ở cái kho này, không được
đánh đấm, buồn tay buồn chân lắm.
Tôi cũng thế, dẹp xong bọn chuột, chả có
việc làm, cũng thấy buồn chân buồn tay thực.
Nhiều ngày như thế, cả anh Ngân và tôi
thấy bức bối chân tay lắm. Cho đến một hôm, anh Ngân mang các thứ nhu yếu phẩm đi
cấp phát cho các anh ở Đá Bạc. Đá Bạc là một đơn vị ở tận mé bên kia đảo. Tôi
thấy muốn đi loanh quanh tí chút, nên mon men từ con đường trước nhà, rồi đi ra
xa. Đi được một quãng trên lối đường rộng thì bỗng nhiên tôi thấy có đứa nào đấy
chạy loạt xoạt trong bụi cây. Tôi hăng máu lên, xô tới. Một thằng chuột, nhưng
rất to và dài. Hoá ra ở đảo có loại chuột to đến thế kia đấy, lại còn biết ăn cắp
đồ đạc. Rõ ràng tôi thấy thằng vừa rồi có cắp một thứ gì, như chiếc giày của lính.
Nhiều cành cây lắt nhắt, vướng víu quá. Tôi bẻ mấy cành cây liền mà vẫn chưa đi
lọt. Nó thì đã tuồn vào phía bên trong. Tôi cố lách qua một vòm cây rậm, vào được
bên trong, và bỗng nghe thấy tiếng kêu “léc chéc” rất lạ. Tôi đi về phía tiếng động
lạ ấy. Càng đi, tôi càng nghe nhiều tiếng kêu như thế.
- Léc chéc, léc chéc…
Có những quả sim từ đâu đó ném vào đầu tôi.
- Léc chéc, léc chéc.
Một quả sim đứa nào ném đúng vào mũi tôi.
Tôi nhìn lên. À, trên cành cây có cả thằng cắp chiếc giày bên nách. Xuống đây.
Cả mấy đứa, xuống đây xem nào. Hình như không phải bọn chuột. Sao tay chân chúng
nó dài thế!
Chúng nó vẫn ở trên cây, chỉ chỉ trỏ trỏ,
có vẻ chọc tức tôi. Tôi lập tức trèo lên cây, định tóm lấy một đứa. Nhưng quả
thực là chúng nó chuyền cành giỏi hơn tôi. Tôi nhảy đến một cành có một đứa đang
ngồi vắt vẻo, nhưng thoắt cái nó đã tót sang một cành khác. Bọn nó còn cười rất
ngạo mạn. Bực quá, tôi lên cành cây cao hơn. Vẫn trượt. Từ một cành cây, tôi lấy
đà, nhằm chồm sang thằng đang ôm chiếc giày khư khư ở ngực. Tôi lao vút sang.
Nhưng kết cục, tôi chỉ tóm được một chùm lá, và thấy người bị hẫng hẳn đi. Chùm
lá thõng trĩu xuống, rồi lại bật vút lên như muốn hất tôi văng đi. Tôi bám chặt
hơn. Thằng cắp giày và mấy đứa bạn nó đã tót sang cây khác. Từ bên đó, chúng nó
nhìn sang tôi đang bị treo beng leng, cười khanh khách có vẻ khoái chí.
Không còn cách nào khác, tôi đành thả mình
rớt xuống. Không may, tôi rớt vào một hốc đá. Tôi loay hoay trong cái hốc đá một
lúc lâu. Quái quỷ, vừa sâu vừa nhỏ, không có chỗ lấy đà. Tôi đang lúng túng bấu
víu quanh vách cái hốc đá thì bọn lạ mặt mon men xuống. Chúng nó tưởng tôi đùa
trò gì, nên đến xem. Cả mấy đứa lâu nhâu quanh hốc đá, chỉ trỏ tôi. Một đứa thò
cánh tay xuống, cái loại cánh tay thấy một lần sẽ phải nhớ cả đời. Nó mốc meo
như một que củi đầy rêu vàng vàng. Thằng này đã thò cánh tay như vậy xuống ngay
trước mũi tôi. Ý chừng nó muốn xem có gì ở vách hốc đá tôi đang cố bám víu chăng.
Lập tức tôi nắm lấy tay nó, bấu chặt, rất chặt. Nó la lên khiếp hãi, rồi rút mạnh
ta lên. Theo đà, tôi đu người lên khỏi cái hốc đá. Tôi bấu vào tay nó chặt thêm nữa. Nó vùng vằng rối
rít. Tôi đã choàng cả hai tay bám vào vai nó. Bố khỉ, lông lá gì mà khét lẹt. Nó
vùng chạy. Tôi lênh bênh sau lưng và chân tôi thì đá liên tiếp vào đít nó. Nó
la váng cả lên, chạy thục mạng. Cành lá quất vun vút qua tai tôi, có lúc quệt vụt
vào trán. Bỗng, hập một cái, tôi ngã vật xuống một gốc cây. Chỉ kịp nhìn thấy
chúng nó bỏ chạy hết, rồi tôi lịm đi…
Vẻ như tôi đã ngủ một giấc mê mệt, tỉnh
dậy, tôi quên mất lối về nhà rồi. Chiều buông xuống quá nhanh. Qua cành cây, kẽ
lá, tôi thấy một mảnh trời cao tít đã nhuốm màu hồng pha ánh bạc. Có một con
chim hải âu. Anh Ngân đã có lần kể cho tôi nghe về loài chim biển này. Chúng sống
thênh thang trên những vùng rộng lớn không có nhà cửa, không làng mạc, chỉ có
biển cả. Đôi cánh gầy, dáng bay lòng khòng, nhưng khoan thai, bền bỉ. Tôi nhìn
hải âu bay qua khoảng trời sau kẽ lá, lúc hoàng hôn, chợt thấy nhớ làng quê vô
hạn. Nhớ chị Hoàn quá. Anh Ngân giờ này đang làm gì, có nhớ đến tôi không? Lòng
nghĩ ngợi miên man, tôi cứ đi tiếp. Trời tối nhanh. Cây cối, vách đá đối với tôi
vừa huyền hoặc vừa bí ẩn. Chỉ có bọn đom đóm là bay lượn quá vô tư. Chúng nó dập
dìu đi chơi. Từng đàn, từng lũ lập loè nghịch ngợm khắp mọi chỗ mọi nơi. Hồi còn
ở đất liền, tôi có gặp vài ba con bay ngang qua sân nhà trong những buổi tối.
Chỉ dăm ba con thôi, mà chúng bay khá cao trên đầu tôi. Còn bây giờ, chúng nhiều
hằng hà sa số. Phía nào cũng dày đặc bọn chúng. Bọn nghịch ngợm và lạnh lùng này
làm rối cả đầu óc người ta, đến nỗi tôi thấy bốn phía đều rất giống nhau. Không
biết nên đi về đằng nào nữa. Tôi mỏi chân, đói, nên càmg mệt. Mỏi mệt đến nỗi tưởng
như vấp vào một con đom đóm cũng ngã mất. Tôi nằm ẹp xuống, nhắm mắt cho đỡ phải
nhìn bọn đom đóm…
…Đầu tôi chạm vào lòng bàn tay to và ấm.
Anh Ngân! Tôi đang được anh Ngân ôm siết vào ngực. Anh cúi xuống hà hơi ấm vào
tai tôi.
- Buồm Nhỏ. Buồm Nhỏ…Ồi, cựa quậy thế là
đang sống đây mà.
Tôi cựa quậy thêm nữa.
- Tỉnh chưa nào, hở? Người ướt mèm sương.
Ngủ ghê quá đi mất.
Tôi cứ dúi thêm mãi cái đầu mình vào người
anh. Anh cởi cúc áo cho tôi rúc đầu vào. Đêm trên đảo lạnh thấu xương, chỉ có
ngực anh Ngân là ấm.
Nghe anh Ngân nói, tôi mới biết rằng anh
đã đi tìm tôi suốt từ chiều cơ đấy. Anh còn nói, lúc đi tìm tôi, anh gặp bọn khỉ,
chúng nó léc chéc cả đàn. Anh bảo đã lo tôi bị bọn chúng nó bắt nạt. Hoá ra cái
bọn tôi gặp ban ngày là khỉ đấy. Chúng nó đông thật. Nhưng tôi đuổi chúng nó chạy
tán loạn đi ấy chứ, bắt nạt tôi sao được. Mà thôi, nói ra thì thành đứa huyênh
hoang mất. Tôi đã bỏ đi suốt cả ngày hôm nay khiến anh Ngân phải vất vả vì tôi đấy
thôi. Tôi áp mái đầu vào ngực anh Ngân, áp thật êm, coi như là xin lỗi đấy.
Trời đã thật khuya. Đom đóm dày đặc
chung quanh. Anh Ngân đưa tôi đi, những bước thật chắc chắn. Tôi cảm thấy anh hết
lòng yêu quý tôi, và cũng thấy mình lớn khôn lên một chút nữa.
7.
Lại lên đường - Những bến lạ
Mùa đông đã đến.
Sương mù trên đảo rất dày. Màn sương mờ
mịt khiến tầm nhìn của lính đảo bị hạn chế nhiều, máy bay Mỹ thường lợi dụng tình
thế này để tấn công Hòn Mê. Có nhiều cuộc đọ sức khá quyết liệt giữa lính đảo với
bọn máy bay Mỹ. Nhiều tốp F105 và các loại họ hàng của chúng
đã bị lính đảo bắn cho toé khói, bỏ chạy.
Quả thực là bọn giặc đã gây cho chúng tôi
một số khó khăn. Chúng nó tấn công vào các trận địa trên đảo, ném bom vào mọi
chỗ có kho tàng, vũ khí của ta. Những chỉ thị của đảo trưởng luôn luôn được
truyền xuống các đơn vị. Anh Ngân và tôi được lệnh phân tán kho tàng ra khắp đảo,
để nếu có bị bắn phá chỗ này thì vẫn còn những chỗ khác. Thế là bắt đầu những
ngày vất vả.
Sáng nào anh Ngân cũng dậy sớm, khuân vác
những hòm xà phòng, những kiện đồ hộp, những thùng dầu bôi trơn cho các bộ phận
súng, pháo, và cả những bó giẻ lau pháo nữa. Anh chất những thứ đó lên chiêc xe
cải tiến, chở đi. Nhìn anh kéo xe ra đi mỗi sáng, tôi ước mình thật khoẻ để có
thể giúp anh. Khi khoác cái dây kéo xe vào vai, anh thường dặn tôi:
- Một mình Buồm Nhỏ ở nhà, phải bảo vệ lấy
tất cả các thứ kia đấy.
Anh chỉ những hòm, những thùng còn lại
trong nhà. Việc ấy thì dễ hơn. Chỉ lo cho anh kéo chiếc xe nặng trên những lối đi,
máy bay Mỹ bất thường có thể nhào xuống bắn phá. Tôi tiễn anh ra ngõ, anh còn
ngoái lại bảo tôi:
- Thôi, vào đi!
Tôi ẩy ẩy tay anh, là muốn bảo anh cứ đi
đi.
Anh kéo chiếc xe lóc cóc, đi khuất vào lối
đường quành. Tôi dõi theo anh. Phía nào có tiếng súng, tiếng bom, tôi lo về phía
đó. Lo cho đến lúc anh về. Anh hay về muộn. Có lần mặt mũi lấm lem, lần thì áo
bị rách toạc, đất bụi bê bết. Lại có lần chân anh bị rách toác một miếng, chảy
máu. Thấy tôi nhìn, anh bảo:
- Bọn Mỹ nó ném người ta đấy.
Tôi lau lau vết đau cho anh, lau thật nhẹ.
- Buồm Nhỏ vẫn làm tròn nhiệm vụ chứ?
Anh Ngân nâng tôi lên, kiểm tra xem có bị
thương gì không.
Chuyện của bọn tôi ngày ngày cứ như vậy. Cho đến một hôm,
anh Ngân đi họp về, nói với tôi:
- Buồm Nhỏ, ở bên Đá Bạc người ta yêu cầu
Buồm Nhó sang đó ít hôm đấy. Tạm xa nhau vài ngày nhé.
“Chia
tay thì hơi buồn. Nhưng sang đó làm gì nhỉ?”
- Bên ấybọn
chuột ăn mất nhiều xà phòng, cắn nát cả bao nhiêu giẻ lau pháo.
“Thế là
tôi phải đi ngay chứ còn gì”
Anh Ngân
đưa tôi sang Đá Bạc ngay hôm ấy. Đá Bạc là một cao điểm quan trọng của đảo. Các
anh lính trên cao điểm này đã rất nhiều lần chiến đấu với tàu chiến và máy bay Mỹ. Bấy giờ bọn chuột đang phá phách các đồ dự trữ,
kho tàng, quần áo của các anh. Tôi đến, vào việc ngay. Tất cả bọn chuột ở Đá Bạc
đều khiếp sợ tôi.
Mấy hôm
sau, anh Ngân sang, tưởng anh đón tôi về. Nhưng anh nói:
- Không phải là về nhà đâu nhé. Còn đi vài
nơi nữa cơ đấy.
- ?...
- Có lẽ phải đi khắp đảo thì Buồm
Nhỏ cũng đi, nhé. Đây mới là bến thứ nhất.
Đúng thật,
tôi là Buồm Nhỏ. Đá Bạc là một cái bến. Chỉ vài
ngày lưu lại đây mà các anh lính thật bịn rịn khi tôi tạm biệt Đá Bạc. Họ bảo rằng
tôi đã làm cho họ rất yên tâm. Những cánh tay lính Đá Bạc vẫy vẫy theo tôi. Đi được
một quãng xa, tôi còn ngoái lại chào.
*
*
*
Từ Đá Bạc,
tôi đến Khe Sâu. Ở đây vừa có một cuộc chạm trán giữa lính đảo với tàu bay Mỹ.
Cây cối bị đổ gãy tả tơi. Những tảng đá lớn bị chém vạt đi từng mảng. Những anh
lính Khe Sâu đang sửa sang lại hầm hào, công sự. Nhiều thùng chứa nước ngọt bị đổ,
mấy thùng khác bị đất bụi bay cả vào. Quần áo các anh lấm bẩn lem nhem. Công việc
của lính Khe Sâu lúc này rất bề bộn. Công việc của tôi cũng rất nhiều. Bọn chuột
ở đây quá quắt lắm. Một anh nói để tôi biết:
- Có ba tấm bạt bị chuột khoét thủng rồi.
Bạt là thứ rất cần thiết để che nắng,
che mưa cho lính đảo, che súng, pháo nữa. Vậy mà bị bọn chuột nó khoét đi thế,
tôi tức lắm. Nhìn các anh sắp xếp các thứ còn lại, tôi thấy vài tấm bạt nữa có
lỗ thủng. Tôi đưa tay sờ vào các lỗ thủng, mùi khét lẹt.
- Bị
bom đấy. Bom Mỹ nó cắn cũng nặng, Buồm Nhỏ nhỉ.
Một anh khác thấy tôi có vẻ tiếc rẻ, liền nói:
Xếp vào hang đá sẽ không bị nữa đâu.
“Xếp vào hang đá đi. Tôi sẽ trị cái bọn
chuột ở trong hang”
Thế rồi lại một cuộc tiễn đưa sau những
ngày tôi dốc hết sức làm việc ở Khe Sâu. Các anh lính ở đây gói cho tôi mấy con
cá để ăn đường, rồi chào nhau.
Qua một buổi chiều đầy sương trên lối đi,
tôi đến kho rau, gạo ở ghềnh Chàng Mong. Bàn chân tôi nhớ nhất những giọt sương, từng bước,
từng bươc áp xuống thấy tê buốt. Một đội thuyền do nữ dân quân trong đất liền
hay chở đồ tiếp tế cho đảo, nên có người còn gọi địa điểm này là ghềnh Nàng Đợi.
Sương mù dày đặc từ sáng đến đêm, và lại từ đêm đến sáng, mù mịt, lạnh lẽo. Vô ý
chạm phải một cành sim, mà chả cần thế, chỉ cần một làn gió thổi qua là sương đọng
sẵn trên lá sim sẽ như những cục nước đá rơi vào mình ngay. Nếu nó rơi vào tai
thì rất tệ hại. Tôi đã bị một lần rồi, ngoài bị tê điếng lỗ tai còn thấy trong
tai chỉ có mỗi tiếng ù ù, làm tôi không kịp phát hiện ra kẻ thù. Thằng chuột làm
lăn một củ su hào tôi mới biết. Do vậy, tôi buộc phải cụp tai xuống mỗi khi đi
lại.
Chàng Mong – Nàng Đợi, tên
ghềnh đá thật lạ. Đây là trạm đón những rau, gạo, thịt, cá, mắm muối, nước ngọt…
từ đất liền ra. Những ngày tôi ở đây, không thấy có thuyền nào tới đảo. Đợt gió
mùa này quá dữ dội. Vùng biển lại đang bị tàu chiến Mỹ kéo vào ồ ạt. Tình hình
thật nhiều khó khăn. Một buổi tối, gió bấc hun hút, tôi đang ở vị trí làm việc
của mình, bỗng nghe tiếng giày bước lập cập, tiếng một hòn đá lăn. Rồi tiếng người
quát to:
- Tắt đèn pin đi. Tắt đi! Các ông định
biếu bọn phi công Mỹ chỗ rau còn lại đây hay sao?
- Ờ, ờ…
Đừng có nạt nhau. Cánh tớ đã giã nhau với bọn nó nhiều rồi. Việc gì mà phải sợ
quá thế?
- Sợ,
thì tớ chẳng còn ở đây, lấy ai tiếp các ông lúc này.
- Tiếp đón
quái gì. Xin ít gạo thịt, rồi đi ngay đây. Có rau xanh đấy chứ?
- Su hào.
Nhưng mà ngốn vừa thôi, các ông nhé.
- Này. Đói
cơm cũng được. Còn rau, ông cứ đánh đấm vài trận xem cần đến mức nào. Suốt ngày
quần nhau với khói lửa, háo phổi kinh khủng.
Có tiếng
chọn su hào. Rồi tiếng trò chuyện.
- Ồ, tươi nguyên ông ạ. Ở nhà mình mùa này,
cứ ra vườn hái mà gặm như củ đậu ấy…
- Này.
Cả khẩu đội cậu chỉ được năm cân thôi, ăn một tuần đấy. Thôi nào. Còn phần cho
người khác nữa chứ. Tớ không tiếc các ông đâu. Nhưng gay quá, thuyền có ra đảo được
đâu nào… Tớ xin các ông. Bọn tớ cũng thế thôi, giữ lại, là để các anh em khác mỗi
bữa có hơi rau xanh gọi là. Chịu khó vậy đi.
Tiếng vỗ
vai nhau.
- Này, nấu cả những cái lá kèm vào. Giập
tí chút, nhưng non đấy, cho khỏi phí.
Tôi không
hay ăn rau. Nhưng nghĩ, nếu không có cá để ăn thì có lẽ tôi không bắt được chuột
mất. Thế mà ngày nào trên đảo cũng đánh đấm, báo động. Tôi buồn. Nếu là chị Hoàn,
chắc chị đã khóc oà lên vì thương các anh ấy. Đêm đó, tôi ngủ bên những củ su hào
còn lại. Còn ít quá. Ngày hôm sau, tôi cũng bắt đầu hiểu nỗi mong đợi của các
anh lính. Vẫn chưa có thuyền ra đảo. Việc của tôi là tiếp tục đi.
Tôi sang Hòn Dơi, Hòn
Vàng bằng thuyền, đi trên mặt nước xám ngắt, dưới vòm sương mờ mịt và lạnh toát
của biển mùa đông. Mùa đông, thiên nhiên có phần ảm đạm và khắc khổ. Gió bấc trên
đầu và đá sắc dưới chân. Nhưng vẫn phải đi. Trên mỗi hòn đảo nhỏ chung quanh Hòn
Mê đều có các phân đội chiến đấu. Tôi đến, chủ yếu là để bảo vệ giẻ lau pháo, xà
phòng dùng tắm rửa cho pháo và đồ ăn cho các anh lính. Bọn chuột thấy tôi đến
thì tan tác ngay. Tôi lần lượt đi qua các đảo nhỏ trong thời gian lính đảo vẫn
sống trong tình trạng báo động căng thẳng. Những hoạt động trên đảo nào cũng thật
khẩn trương, gấp gáp. Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ, tôi hiểu thêm chút ít về
những đảo này, do nghe lỏm được chuyện của các anh lính. Đây chính là quần đảo
Vị, gồm mười sáu hòn đảo nhỏ quây quanh đảo lớn Hòn Mê. Từ xưa, quần đảo Vị là
nơi thuyền đánh cá của cư dân các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá và Nghệ - Tĩnh vẫn
ghé vào neo đậu những khi đi khơi gặp phải bão gió. Thời hoà bình mấy năm về trước,
dân chài có thể ghé vào đảo bất cứ lúc nào, lên thăm những anh lính biên phòng
hay mấy anh gác đèn biển. Trên đảo lớn Hòn Mê có nhiều khu rừng. Có giống quýt
rừng và cả bưởi rừng quả cực chua, nhưng mùa xuân hoa nở trắng, thơm ngào ngạt.
Lại có san hô màu đỏ dưới đáy biển quanh chân đảo. Mọi người có thể hái quýt ăn
thay chanh, hái bưởi nhắm mắt mà ăn nhưng giải khát rất tốt, và lấy san hô về
trang trí ở nhà. Người ta bảo khắp các vùng biển của nước mình, chỉ có vùng đảo
Mê này là có san hô màu đỏ. Những điều ây,
tôi ở ngay đây, cũng chỉ được nghe kể thôi.
Bây giờ đang có gió bấc rất dữ và báo động
căng. Mấy anh lính đảo ủ tôi vào trong áo bạt của các anh khi đi thuyền trên mặt
biển, qua các hòn đảo. Đôi khi tôi nghĩ đến chị Hoàn và thèm một ngày có nắng
quá…
Chuyến thuyền chở tôi về Hòn Mê ghé vào một bờ đá dựng đứng,
cao vút. Leo lên những bậc đá thật cao và dốc thì tới tháp đèn Hải Đăng. Tôi lên
tháp đèn Hải Đăng, ở lại đây cả tuần lễ. Công việc của tôi chẳng có gì khác trước.
Hai anh ở đây không phải là lính chiến đấu. Các anh có nhiệm vụ cứ gần tối là đi
thắp sáng ngọn đèn trên tháp cao. Hai anh bảo, đó là con mắt của biển. Một anh
nhìn tôi, ánh mắt hau háu mà lại như cười, rồi nói:
- Cặp mắt Buồm Nhỏ trông sáng xanh thế
kia.
“Tôi cũng biết thế. Tôi cần phải làm việc
về ban đêm”
- Cho bọn mình để lên tháp cao kia, thay
cho đèn thì tốt lắm.
Tôi biết các anh đùa, nên ngoảnh mặt đi chỗ khác.
- Ghê nhỉ. Bọn này còn làm con mắt của
biển, để mọi tàu, thuyền biết lối đi cơ đấy. Đừng chê nhau nhé.
Tôi muốn
bắt tay hai anh như bắt tay các anh lính chiến, mặc dù tôi không am hiểu công
việc của các anh lắm. Chỉ biết rằng hai năm, kể từ khi có chiến tranh, đêm nào
ngọn đèn cũng được thắp sáng. Mà, giữ những ngọn đèn trên tháp cao tít kia sáng
suốt những đêm chiến tranh là khó khăn vô cùng. Hai anh giữ đèn sống xa mọi người,
rất ít được gặp mặt và nghe tiếng người. Tôi được hai anh xin đảo trưởng cho đến
Hải Đăng vì tôi là một cái gì na ná như một niềm vui đất liền gửi ra cho đảo. Tôi
luôn được các anh vồ vập, nâng niu, chiều chuộng. Có thức ăn gì ngon đều muốn
mang ra cho tôi ăn. Còn công việc của tôi thì rất nhàn. Vật dụng của hai anh chỉ
có ít quần áo, ít gạo, ít rau củ, mắm muối… đố bọn chuột dám đụng đến khi tôi đã
ở đây. Hai anh Hải Đăng nhiều thời gian rỗi, tôi càng được cưng chiều. Hải Đăng
rất cao, nên nhiều gió lạnh. Tôi được các anh bọc trong chăn, đệm. Tôi không thích
chăn, đệm nên thường tuồn ra.
- Nào, Buồm Nhỏ, rét thế, đi đâu đấy?
Tôi muốn chuồn về quá, về chỗ anh Ngân thì rất tốt.
- Lại đây, nào…
- Ồ, cái tai Buồm Nhỏ
xinh quá.
Tôi không thích xinh đâu mà.
- Hay Buồm Nhỏ cũng mong tin nhà đấy?
Tôi nhìn hai anh, thấy các anh thật hiền.
- Thôi, lên tháp sưới nắng tí nhé. Có nắng
rồi.
Lên trên tháp, rất cao, nhìn ra thấy biển phẳng lặng đến
tận chân trời.
- Kìa, những lá thư.
Tôi không hiểu những thư nào. Anh ngồi bên
cạnh tôi cũng chăm chắm nhìn ra xa, rồi nói:
- Ừ, ừ đúng rồi!
Tôi nhớ, chị Hoàn cũng có biết viết thư.
- Có lẽ thuyền thư nào bị bom dọc đường…
- Có thể.
Tôi cũng đã nhìn thấy. Những tờ giấy gấp
vuông vuông dập dênh mãi ngoài xa, như đang vẫy vẫy.
Hai anh trở nên tư lự, bần thần.
- Thư trước thằng em mình gửi ra, nó viết
là đã được đi học ở nước ngoài. Có khi thư nó gửi từ Liên Xô về, chưa tới…
- Mình chỉ mong tin mẹ.
Tôi chưa hề biết những lá thư quan trọng
như thế nào. Nhưng tôi chợt nhớ chị Hoàn, nhớ ông nội, bà nội nữa. Bỗng mong một
tin gì, một tin gì đó từ trong đất liền đến với tôi. Mong vô cùng.
*
*
*
Tôi phải rời Hải Đăng để về cao điẻm Lô
Cốt, vì trong đó gọi tôi.
Ở đây có cái lô-côt đã được xây cách đây
mấy chục năm. Thành xi-măng rất dày, xù xì rêu mốc. Tôi thấy trên mặt phẳng bức
tường có khắc những chữ gì ấy, tôi vốn không biết đọc mà. Nhưng trông nó có vẻ
buồn cười. Nếu tôi đặt bàn tay xuống mặt cát rồi nhoáy một cái, nhấc tay lên thì
dấu tay tôi cũng thành một vết na ná như những chữ kia. Các anh lính bảo rằng
chỗ tôi đang đứng đây rất quan trọng. Ngày xưa bọn Phát xít Nhật đã dịnh chiếm
lấy. Chuyện ấy đã cũ mèm rồi. Bây giờ, đây là
một cao điểm đánh Mỹ.
Những anh lính Lô Cốt đón tiếp tôi rất
niềm nở.Các anh biết tôi mới đi công tác khắp cả quần đảo về, nên mang cho tôi
nào cá, nào thịt. Cái hôm tôi trên đường đi từ Hải Đăng đến đây, đã có thuyền
tiếp tế từ đất liền ra đảo. Tôi không ăn được nhiều, các anh cứ rối rít cả lên.
- Buồm Nhỏ có vẻ sút cân
- Này, ăn nữa đi. Mong mãi.
- Ăn no
cho lại sức, rồi thì ối việc làm đấy.
- Không,
Buồm Nhỏ cần được nghỉ ngơi tí chút đã. Sưởi cho
hết nắng đi, Buồm Nhỏ nhé.
Đã có nắng.
Sang xuân thật rồi. Ngay trước cái lô-cốt có một bồn hoa. Các anh lính phải đi
làm thêm công sự mới. Tôi nghe lời các anh, nghỉ ngơi bên chỗ bồn hoa.
Quả thực là rất khoan khoái. Có lẽ những
cây hoa kia cũng thế. Mẫu đơn, hải đường, mào gà… nhiều nhất là mẫu đơn. Chúng
nó đỏ rực, lấp lánh trong nắng. Kỳ lạ thật, những cây hoa có thể mọc trên đất đá,
giữa bốn bề biển, gió sóng, nắng sương. Chúng đỏ bừng bừng như niềm vui sung sức.
Bỗng dưng, từ chỗ các anh đang đào công sự có người thốt kêu lên:
- Xương người!
Rồi tiếng mấy anh nữa.
- Xương người, các cậu ơi.
- Ôi, đây nữa! Nhè nhẹ nào.
- Ừ, đúng
rồi.
Tôi đi
lại chỗ các anh. Mấy anh lính không nói năng, bàn tán nữa. Tất cả đều nhìn về
phía một anh đang lần lần bàn tay áp nhẹ lên những đốt xương người, miệng lắp bắp:
- Đúng rồi, của dân làng… ngày xưa đây.
Nói, rồi anh đứng lên, nhìn khắp lượt đồng
đội, bắt đầu kể chuyện xảy ra cách đây mấy chục năm. Ngày ấy, có mười hai người
dân đi biển, chính là dân làng tôi, đã bị bọn Phát xít Nhật bắt cóc tất cả. Chúng
đem họ lên đảo xây lô-cốt. Xây xong chúng giết họ luôn để giữ bí mật cho chúng.
Cách đây mười mấy năm, những anh lính đầu tiên ra đảo, đã tìm thấy một số bộ xương
người rải rác trong các khe đá. Các anh ấy gom những bộ xương đã tìm thấy được
và chôn cất luôn ở đảo. Rồi họ trồng lên một bồn hoa thay cho nấm mộ. Bồn hoa
trước lô cốt…
Những anh lính hôm nay lại đem những xương
cốt mới tìm thấy, chôn cất dưới gốc những cây hoa. Những cây hoa đỏ bừng bừng
thế kia.
Tôi lặng yên nhìn những anh lính làm việc
đó. Xong, các anh ngả mũ, kính cẩn trước bồn hoa. Im ắng bao la. Im ắng đễn nỗi
một tiếng người dường như cũng vang vọng vô cùng, vang rung rinh cả đảo đá ngày
nắng đẹp, không có tiếng súng nào.
8.
Đấu tranh với chính mình
còn
khó hơn diệt kẻ thù
Suốt một thời gian dài, phương châm sống
của lính Hòn Mê đã nổi tiếng khắp nơi trong nước. Phương châm đó là “Ba ít, một
nhiều”, nghĩa là ít lương thực, ít súng đạn, ít thương vong, và nhiều máy bay Mỹ
bị hạ.
Tôi sẽ rất giận nếu ai đó nói đến số lính
trên đảo Mê mà không có tôi. Tôi đi đứng, sống trên đảo đá này! Dịp này tôi có
mặt ở Đá Bạc. Đi một vòng qua các nơi, về đến Đá Bạc, tôi thấy cảnh, thấy người
khác trước nhiều. Những mỏm đá cao bị bom phạt sứt sẹo, lở loét. Mấy lũng cây bị
cháy, trơ lại những thân gỗ đen, gầy lòng khòng. Những anh lính có vẻ gầy. Thuyền
chở gạo, nước ngọt và thực phẩm đã hơn một tháng liền không ra đảo. Tình hình vùng
biển căng thẳng quá, như các anh lính nói, máy bay chúng nó không giảm cường lực
đánh phá mà lại thêm cả pháo kích của chúng từ chiến hạm ngoài khơi bắn vào vùng
ven biển của ta.
Bọn chuột có vẻ liều mạng hơn trước đây
tôi thường thấy. Đói, nên chúng liều lĩnh mon men đến chỗ để lương thực và thực
phẩm dự trữ. Thoạt tiên tôi cứ tưởng nhiều chuột lắm, bởi lúc nào cũng thấy bóng
dáng của chúng nó. Không thấy rõ mặt mũi, thứ mặt mũi quắt queo lóp nhóp, thì cũng
nghe thấy tiếng kêu chút chít đâu đó. Sau mới hiểu chúng cũng không nhiều lắm.
Chỉ qua dăm ngày, tôi đã dọn sạch.
Đến lúc này, kho đồ hộp chỉ còn mấy hộp
sữa, vài hộp pa-tê, bột đậu xanh và một ít gạo ngon để dành cho người ốm hay bị
thương.
Thời gian này tôi hay nhớ những bữa ăn
chị Hoàn đi tìm tôi về, trên mâm có đủ cá mú đình huỳnh. Tôi không phải là loại
ăn tham, cũng không phải là loại hay đòi hỏi thức nọ thức kia. Ở đảo, không ai đòi
hỏi vật chất nhiều đâu. Sống chịu đựng nhẫn nại nhất là lính đảo. Các anh đã phải
dùng đến những củ chuối rừng trong những bữa ăn rồi. Có lẽ, trong loài tôi, tôi
là đứa đầu tiên ăn đến loại thức ăn vừa chát vừa lõng bõng này. Thế mà ngày nào
cũng có chiến trận. Đánh cả ban ngày, đánh cả ban đêm. Ban đêm, đèn dù sáng rực
như ban ngày, thấy rõ từng ngọn cỏ. Nếu có tên chuột nào chạy ra, tôi sẽ chồm
trúng ngay từ phút đầu.
Phải đánh nhau với cả máy bay và tàu chiến
của giặc cùng lúc, nên các anh lính không có thì giờ để ý đến tôi nữa. Lúc nào
cũng thấy họ la hét, nào hướng mười hai, hướng ba mươi tư, kinh độ, vĩ độ. Đó là
những điểm cần theo giõi ở trên bầu trời và dưới mặt biển. Còn tôi, điểm tôi
hay nhìn thấy là hình những con cá, hình những miếng thịt trên những cái hộp.
Ngày thứ mười, tính từ hôm tôi bị đói. Tôi
đưa tay lên một hộp xem nó thế nào. Ấy là định xem hình con cá phía ngoài thôi.
Nó còn không thèm động đậy, vẻ lạnh lùng, như đang nói:
- Tôi là của người ốm hay người bị thương
thôi đấy.
Tôi nhìn mình. Không, tôi khoẻ mạnh.
Ngày thứ mười một. Tôi đưa tay lên, nó vẫn
như thế. Tôi với sang một cái hộp bên cạnh đấy. Tôi sắp buột ra một câu than vãn
“Tôi đói lắm rồi. Trong bụng chẳng có gì cả…”
Đột nhiên bên ngoài có tiếng lập cập bước
chân các anh lính. Tôi quay ra, thấy hai anh lính khiêng một anh bị thương vào,
mặt mũi lem nhem bụi đất và khói súng. Sống giữa những bom đạn, làm sao tránh
khỏi điều ấy. Tôi chạy lại gần, anh bị thương được đặt lên một chiếc giường. Một
anh chạy lại góc hầm, định cầm một cái hộp. Nhưng anh nằm trên giường nhìn
theo, bảo:
- Mình bị nhẹ thôi, hẵng để dành.
- Thì cứ hớp một tí cho lại sức. Cậu bị
choáng đấy, vì sức ép, mà cũng vì sức cậu yếu đi nhiều.
- Không. Để còn trường hợp khác nặng hơn.
Tàu chiến của bọn nó vào nhiều, lâu mới có thuyền ra đảo.
- Hớp lấy một tí, còn lại vẫn để dành được
cơ mà.
- Thôi các cậu ạ. Ra đi cho khỏi thiếu
“số”.
“Số” là vị trí của các pháo thủ, thiếu một
“số” sẽ khó khăn cho cả khẩu đội.
Một anh xoa nhẹ lên mặt và trán anh bị thương.
Rồi cả hai anh cùng đi ra. Bên ngoài lại có những tiếng nổ lớn, rung chuyển thật
mạnh. Tôi thấy da mặt anh lính, chỗ mới được đồng đội lau qua quít lớp khói bụi,
hơi tai tái, có đường gân xanh chạy giật giật. Tôi nép vào bên anh, vạt áo người
lính khét lẹt. Mùi khét áo anh làm tôi quên đi vị cá, cái vị cá cách đây lâu lắm
rồi.
Ngày thứ mười hai, mười ba gì đó, anh lính
bị sức ép đã đứng lên, đi ra công sự. Ở nhà một mình, tôi đã có kinh nghiệm rồi,
không đi vào góc hầm nữa. Tôi sợ mình sẽ tiện chân, tiện tay vớ một hộp, một hộp
thôi, đập ra. Tôi đói quá rồi mà.
Trưa hôm đó, lại có một anh được đồng đội
đưa vào hầm, cánh tay buộc băng trắng toát. Anh nằm, người mềm oặt, không nói năng,
không cử động. Một lúc lâu sau, mắt anh từ từ mở ra. Thấy anh đã mở mắt được, các
anh khác đỡ lo. Một anh chạy tới góc hầm để đồ hộp, vớ ngay một hộp, làm các việc
cần thiết rất nhanh. Anh bị thương mím môi, lắc đầu, rồi khép mắt lại, ngủ lịm đi.
Buổi chiều, anh bị thương tỉnh lại. Lúc
này chỉ còn một anh ở lại để chăm sóc người bị thương. Anh bắt đầu cho anh bị
thương ăn. Sữa cứ trào ra hai bên mép anh ấy, trắng lắm. Anh đang bón sữa dịu dàng
nói:
- Nữa nào, nào. Ăn cho chóng lại sức.
- Cậu ăn đi. Chắc cậu đói lắm.
Có lẽ người đau ốm ít thấy cái đói giày
vò như người khoẻ mạnh. Tôi nghĩ thế. Nhưng anh lính khoẻ mạnh nói:
- Không. Bọn mình còn ăn được cơm.
Cơm đâu. Cháo củ chuối đấy chứ, hằng ngày tôi vẫn thấy.
- Mình chả muốn ăn đâu
- Không được. Không ăn thì cậu sẽ lả đi
mất.
Sữa vẫn trào ra hai bên mép anh bị thương,
trắng lắm.
- Anh em có ai bị gì không?
- Không. Cậu cứ nằm yên, đừng nghĩ ngợi, cho chóng khoẻ.
Im lặng. Một lúc sau, anh bị thương nói:
- Cậu ạ. Đang yên, cậu đem hoà vào bình
toong hết cả đi, hoà loãng loãng cũng được. Rồi mang ra ngoài khẩu đội cho mỗi
người hớp một tí.
- …
- Các cậu chiều mình, làm thế đi. Mình không sao đâu.
Mình ngủ một lát.
Anh bị thương dùng cánh tay không bị băng
kéo chăn. Anh kia giúp đồng đội kéo tấm chăn mỏng lên, che kín mặt, kín đầu. Tấm
chăn rung rung khẽ. Người lính không bị thương đứng im, vẫn nhìn vào bạn, có
hai giọt nước ứa ra nơi khoé mắt anh.
Tránh khỏi cái hộp sữa đã mở sẵn nắp để
khỏi vô ý làm đổ mất, tôi đi ra phía trước cửa hầm. Dưới lòng khe rất nhiều cành
cây cháy trụi. Nắng buổi chiều chiếu vào những ngọn cây cao, những vạt đá cao một
màu vàng rực, như cháy.
- Buồm Nhỏ đâu nhỉ, Buồm Nhỏ…
Tiếng anh lính gọi, tôi định quay lại.
Không được. Anh bị thương bảo anh hoà vào bình toong rồi mang ra khẩu đội cơ mà.
Tôi đi xa thêm cái cửa hầm.
*
*
*
Chập tối, tôi về với các anh cho đỡ nhớ.
Anh lính bị thương đã tỉnh, nhìn tôi rất
hiền. Anh nhắc đồng đội chú ý đến tôi. Mấy anh có vẻ ngượng vì đã có lúc không để
tâm đến tôi. Một anh lấy cháo củ chuối cho tôi ăn. Chát quá, mặn quẹo cả lưỡi.
Một anh lấy cái vỏ hộp sữa, rót nước vào, lắc lắc. Anh quay nhìn tôi, rồi lắc đầu
và đi nhóm bếp.
- Hết nước ngọt đến nơi rồi.
- Ừ, hơn một tháng không có tiếp tế.
Ánh lửa bếp lom đom hắt lên những khuôn
mặt lính gầy hốc hác.
Mình đổ hơi nhiều nước. Phải cô đặc lại
cho Buồm Nhỏ. Trông Buồm Nhỏ gầy thế kia.
Tôi rân rấn nước mắt, cắn cắn móng tay.
Tôi ăn sạch nhẵn chút sữa trong chiếc vỏ
đồ hộp. Thỉnh thoảng, theo thói quen, lưỡi tôi táp khẽ vào bàn tay anh lính ngồi
bên. Bàn tay nhiều ngày không rửa nước ngọt, ram ráp, khen khét.
Anh bị thương nhìn tôi suốt buổi ăn. Rồi
anh bảo đồng đội cho tôi đến với anh. Tôi lại giường anh. Anh kéo tôi nằm xuống,
ngay bên cánh tay buộc băng .
- Xoa xoa cho tớ một tí nào, Buồm Nhỏ.
Anh nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt dịu dàng.
Tôi đưa tay sờ lên cánh tay đau của anh. Anh cười nho nhỏ, hiền hậu, rồi đột
nhiên ngoái nhìn ra phía mấy anh khác:
- Các cậu thấy không, ở Hòn Mê này có một
người lính như thê này đây.
Bàn tay không đau của anh áp lên lưng tôi,
kéo tôi sát thêm chút nữa vào bên lòng anh:
Thằng Mỹ mà biết Buồm
Nhỏ sống ở đây mấy năm nay vẫn yên lành, chúng phải điên lên mất. Đánh như cuồng
như dại cả tháng vào đảo này, mà có làm gì được Buồm
Nhỏ đâu, Buồm Nhỏ nhỉ.
Mấy người lính nhìn tôi, có anh nhoẻn cười.
Bên ngoài đã yên ắng.
Hôm sau, vẫn diễn ra những cuộc chiến đấu
ác liệt. Bốn ngày liền tiếp theo, dù đói thắt ruột, nhưng tôi vẫn vững lòng. Một
buổi đêm, thuyền từ đất liền đã ra đảo. Không thể tả được nỗi vui mừng của chúng
tôi khi tới gềnh Chàng Mong
– Nàng Đợi đón thuyền.
Một tháng sau tôi được đến kinh đô.
9.
Kinh đô - Chiến đấu bên bồn hoa
Kinh đô ở đây không phải là thứ kinh đô
mà các bạn hay đọc sách, hay xem phim, ảnh vẫn thấy. Khắp cả quần đảo, mọi người
lính đêu gọi khu tháp đài quan sát là kinh đô xứ Mê.
Chỉ có một cái tháp cao, để từ đó lính
ta quan sát mọi phía, và một căn nhà hầm. Căn nhà hầm nằm lút vào chân núi. Khi
tôi bước vào, đã thấy hoa bày trên mấy dãy bàn, thật đẹp. Hoa hải đường, mẫu đơn
và mào gà, chắc đem từ cao điểm Lô Cốt về. Lại cả hoa mua, hoa sim có lẽ lính
ta hái ở bên gềnh Chàng Mong
– Nàng Đợi. Hôm nay, mỗi đơn vị đều cử các đại biểu về kinh đô. Tôi đi trong đoàn
Đá Bạc. Nghe nói, những anh lính không đến dự cũng có tiêu chuẩn của mình, ngày
hội cơ mà. Giờ này các anh ở đơn vị đang ăn mừng ngay bên mâm pháo đây.
Có một số phóng viên báo chí và đài phát
thanh ra đảo. Tôi nghe các anh lính kháo nhau như vậy. Có một người chĩa ống kính
máy ảnh lên vách núi, phía trên mái nhà hầm. Trên đó, có một băng vải đỏ với một
dòng chữ vàng dài suốt băng vải. Mỗi người đến đây đều nhìn lên đó, và hoặc đọc
lẩm nhẩm, hoặc đọc thành tiếng:
Đảo
Hòn Mê đón nhận danh hiệu anh hùng.
Tôi thấy đảo trưởng và mọi người hôm nay
đều mặc đẹp. Quần áo mới, trên cổ áo đính hai lá cờ vuông vuông và cứng, trên vai
áo thì cờ dài hơn, có những ngôi sao. Tôi đưa tay sờ vào những lá cờ trên cổ áo
các anh lính. Mấy anh bàn tán:
- Buồm Nhỏ không có quân hàm, quân hiệu à?
- Ồ, phải làm cho Buồm
Nhỏ quân hàm ngay mới được.
- Trung sĩ nhé, trung sĩ!
Một anh lấy hai cánh hoa mào gà đính lên
vai tôi. Mọi người đều khen tôi đeo quân hàm trông rất đẹp.
- Trung sĩ Buồm Nhỏ!
Tiếng cười
vang khắp cả kinh đô. Mọi người vây quanh tôi. Ai cũng nói một câu chúc vui vẻ.
Bỗng đám đông quanh tôi rẽ ra, một anh len vào, đến trước mặt tôi. Anh Ngân! Tôi
choàng ôm lấy bàn tay anh. Anh giành lấy tôi từ tay các anh lính khác. Ôi, lâu quá rồi nhỉ!
Đảo trưởng
đến, bảo “tất cả lắng nghe nhé”. Anh nói về tôi từ làng biển ra đảo làm lính. Rồi
anh bắt đầu đọc lá thư chị Hoàn mới gửi ra…
Chị Hoàn
chắc là nhớ tôi lắm. Vẫn thỉnh thoảng ra cửa nhìn hướng ra đảo xem có thấy tôi
không đấy. Là thấy trong tưởng tượng thôi. Lại còn nói xin phép về với chị vài
hôm. Tôi cũng nhớ chị nhiều, chị biết không, nhớ cái bến bãi làng biển nơi chị
vẫy khăn quàng đỏ tiễn tôi…
Đảo trưởng
ngừng đọc, tay giơ cao lá thư lên vẫy vẫy. Tiếng vỗ tay hoan hô của lính ta
vang dậy.
- Cho Buồm Nhỏ đi phép, ngay ngày mai.
- Đảo
ta sẽ gửi thư cho Hoàn, trung sĩ Buồm Nhỏ mang về.
“Ôi!...
Tôi vui bừng bừng cả người”
Anh Ngân
lúc nào cũng giữ tôi ở bên. Tôi cũng muốn được ở bên anh sau bao ngày xa nhau.
Tôi cọ cọ đầu vào ngực anh Ngân, tỏ ý muốn nhắc nhớ buổi đầu tôi mới ra đảo. Chắc
anh cũng đang nhớ lại, ánh mắt anh nhìn tôi thật cảm động. Những anh lính khác
thỉnh thoảng lại ghé sang phía tôi, trò chuyện. Các anh trao đổi với nhau bao
nhiêu chuyện. Có anh bảo rằng, bọn xâm lược tỏ vẻ muốn dùng mưa bom, bão đạn để
dìm hòn đảo này chìm xuống biển, hoặc là đánh cho trơ trụi, trọc lốc đi. Bọn nó
quả là ngốc. Chúng tôi đang vui cười ở đây. Tiếng cười của lính đảo vang dội vào
vách đá, vọng cả ra biển lớn. Tôi vô cùng vui, vui đến ngây ngất.
*
*
*
Tôi đang
nằm trên tay anh Ngân, trên đường đi về cao điểm Lô Cốt. Lối đường dẫn qua những
vạt đất rộng có nhiều bụi cây dại; tiếp đó men giữa hai vách núi, lúc lên, lúc
xuống. Nằm bồng bềnh trên tay anh, khiến tôi nhớ lại buổi đầu lên đảo tôi ngồi
trên chiếc mũ, anh ôm trước ngực. Chính hôm đó anh đã đặt tên cho tôi, cái tên
nay mọi người đều đã biết. Lúc lúc anh lại áp má xuống lưng tôi, nói khẽ khàng:
- Trung sĩ ơi. Vui không nào, trung sĩ…
Tôi cọ
cọ mái đầu vào anh.
- Buồm Nhỏ, hoãn chuyến đi phép rồi nhé.
Có tin báo bão rồi, không có thuyền đưa người đi phép vào đất liền đâu. Ở lại
tiếp tục nhiệm vụ vậy. Không buồn chứ? Ai lại buồn trong ngày này, trung sĩ nhỉ.
Buồm Nhỏ được phong hàm trung sĩ này. Người ta được ra cao đỉêm Lô Cốt để chiến
đấu rồi này. Nói mãi cấp trên mới mới đồng ý để Buồm Nhỏ cùng về cao điểm Lô Cốt
với người ta luôn đấy.
Thì ra
là vậy. Qua khoảng hở giữa hai vạt núi trước mặt, thấy biển căng vồng lên và xám
ngắt. Chúng tôi đi thật nhanh về Lô Cốt.
Đến nửa
đêm thì bão gió quật ầm ào quanh chân đảo. Cho đến chiều hôm sau thì biển lại
xanh biếc và trời trong vắt. Dường như chỉ đợi có vậy, máy bay Mỹ lại ào ạt kéo
tới. Mấy ngày liên tiếp, Lô Cốt rung chuyển trong cơn lốc bụi và khói lửa.
Đôi lúc,
qua khoảng hở giữa những vạt khói, thấy màu trời xanh ngắt. Lũ máy bay tầng
cao, từng đàn trắng nhấp nháy. Lũ tầm thấp đen trũi, từ nhiều hướng bổ nhào xuống.
Không chỉ riêng cao điểm Lô Cốt, khắp cả đảo đang ở trong một trận đánh lớn chưa
từng có. Đá đảo rung bần bật dưới chân pháo. Chân lính ta như cắm chặt xuống đất
đảo.
Bồn hoa đỏ trước lô-cốt giận dữ, rung lên
từng đợt. Khẩu đội trưởng hét vang: “Bắn…”. Và, cũng đã có tiếng hò reo vang dội:
- Cháy rồi! Nó cháy... rồi…
Trong
hai ngày, hai mươi mốt và hai mươi hai tháng chín này, hai máy bay của không lực
Mỹ đã phải đền tội.
Có chừng mươi lăm phút ngơi tiếng súng,
mấy anh lính ngả lưng tạm xuống nền đất. Trong bóng đêm tối om, tôi đi lau tay,
lau cổ các anh. Mùi vị khói đạn thấm vào tôi bừng bừng.
- Trung sĩ, vẫn vững chứ?
- Buồm Nhỏ, kỳ này lại đánh
lớn, biết không?
Tôi biết chứ. Ở đảo, những đợt đánh lớn là chuyện thường
tình.
- Kẻ thù của trung sĩ và kẻ thù của chúng
tôi là cùng một giuộc, phải không?
Tất nhiên là thế rồi. Đừng nghĩ đảo đang
ắng lặng. Không, tôi vẫn biết có những tiếng động gian giảo ở đâu đó. Tiếng loạt
xoạt, lột sột ở trong ngách hầm, Tôi lao tới.
- Lút chút.
Nó ở dưới một hòm gỗ và kêu thật khó chịu.
“Tao
khua cho mày một đòn đây”. Tôi quyết định thế. Lâu nay tôi đã biết sử dụng cái đuôi
như một vũ khí, có thể so sánh với miếng “thoa côn” của một só võ sĩ giàu kinh
nghiệm chinh chiến, như anh Ngân thường nói. Tôi khua ngay một đòn. Nó chạy tọt
sang phía bên kia để tránh đường côn của tôi. Pháo sáng cháy rực lên, soi rõ các
ngóc ngách. Các anh lính rầm rập trở về vị trí chiến đấu. Tôi bay vút qua chiếc
hòm gỗ rất lớn. Nó vẫn tuột khỏi tay tôi. Tôi lao tiếp, và nó đã không tránh được
đòn thứ hai này. Tôi quẳng xác nó vào ngách hầm, để dồn lại, rồi tính kết quả
sau.
Tôi quẳng
xác thằng đó vào xó hầm khá mạnh. Ai dè, còn một đứa nữa đang trong đó, nó khiếp
đảm la lên. Bọn giặc là thế đấy, bị choảng là rối loạn đội hình ngay. Tôi lại dùng
miếng côn, nó hốt hoảng chạy tót ra phía ngoài. Tôi bật mạnh, quăng mình theo.
- Chút chít… chút chít…
“Thoát đi
đâu!”, tôi nghĩ vậy. Đã ra bên ngoài cửa hầm. Chân tôi vướng phải một hòn đá. Nó
chạy xa thêm một quãng nữa. Đừng hòng, tôi lấy hết sức mình bật mạnh, chồm lên
nó. Tôi cắm mạnh đôi vuốt, cắm mạnh cả nanh nữa.
Bỗng, ầm… rung chuyển, nhưng tôi vẫn ghì
chặt, không để kẻ thù chạy thoát, mặc dù tất cả đã mịt mù trước mắt tôi…
…Bằng một linh cảm đặc biệt, tôi biết rằng
anh Ngân vừa ngồi xuống, đưa tay lật tảng đá đang đè lên chân tôi. Tôi thấy
chung quang im lặng. Chỉ nghe tiếng người, tiếng người lính êm dịu khác thường:
- Buồm Nhỏ đây rồi! Các cậu ơi.
- Đâu?... Ôi! Vẫn còn quặp chặt kẻ thù…
Bàn tay nào đầy tình thương mến áp nhẹ lên tôi.
- Bị vào chân rồi.
- Giập… gần đứt. Thế mà không rên!
Không. Ai lại rên la. Tôi chỉ thấy tê tê dưới chân, tê
tê khắp toàn thân.
10.
Cây sang sang
Cho đến lúc tôi có được cảm giác rõ ràng
những gì trên thân thể mình và nhận biết được sự sống chung quanh, thì hai ngày
đã trôi qua. Hai ngày ấy, cuộc chiến thật lớn vẫn tiếp diễn trên toàn đảo.
Tôi không rõ mình được đưa đến nhà hầm
quân y bằng cách nào. Bây giờ tôi chỉ thấy toàn thân mỏi rã rời. Vòm nhà hầm quân
y căng ni-lông để che bụi đất. Mùi thuốc và mùi cồn sát trùng sực nức. Bác sĩ
quân y đeo khẩu trang ngồi bên tôi. Rất yên ổn. Tôi muốn trở mình cho khỏi mỏi
tức. Chỗ bàn chân tôi dường như trống không. Tôi cựa mình, chỗ trống không ấy đau
nhói. Chỗ ấy như có ngọn lửa đang cháy rần rật.
- Buồm Nhỏ…
Bác sĩ gọi nhỏ tên tôi và nhè nhẹ đặt
tay lên chân tôi, như muốn làm cho ngọn lửa dịu bớt đi.
Dịu đi thật, dịu đi được một tí thôi, rồi lại bùng lên
đốt cháy.
- Buồn Nhỏ ơi, đừng cựa mạnh nhé.
Lúc đó, một người từ phía góc nhà vừa nói
vừa đi tới bên tôi.
- Thức dậy rồi à? Đau lắm đấy. Mình xem
nào.
Anh tiến lại gần hơn, cúi sát xuống tôi:
- Thế là mất một chân, tội quá!...
Tôi nhìn, anh là lính và cũng là một thầy thốc. Anh nói
với tôi:
- Bọn Mỹ cướp mất một chân rồi đấy. Bọn
nó thật tàn ác.
Cả hai anh nhìn tôi một lúc rõ lâu.
- Tiêm thuốc trợ lực. Có loại nào tốt thì
đem dùng cho Buồm Nhỏ đi.
Hôm sau, tôi tỉnh táo hoàn toàn. Bác sĩ
bảo tôi trở mình được rồi. Chỗ chân, vết cưa rất tốt, cầm máu ngay. Tôi trở mình.
Lắng nghe, từ bên ngoài vẫn vọng về những âm thanh vang động của cuộc chiến đấu.
Căn nhà hầm quân y lúc lúc lại chuyển rùng rừng.
Trong nhà hầm, có một anh lính gọi tôi:
- Buồm Nhỏ ơi, tỉnh rồi à?
Anh nằm
trên chiếc giường tận góc trong. Tôi cố nhổm dậy để nhìn anh lính, nhưng tay chân
còn run lắm.
- Buồm Nhỏ bị nặng hơn tôi đấy. Thôi, nằm
xuống mà nghỉ nhé.
Thêm một
ngày nữa trôi qua. Tôi tỉnh dậy đúng lúc bên ngoài cửa có tiếng người bước lập
cập vội vã, và tiếng người nói những câu gì hệ trọng lắm. Tôi muốn đứng lên để
nhìn ra. Dù thiếu một chân, tôi đã đứng lên được. Lại một người lính nữa được đưa
vào hầm quân y. Mắt tôi như bị hút vào cái cáng. Người nằm trên cáng kín mít
trong chăn và không động đậy.
- Đặt nhẹ lên giường, nào, thật nhẹ.
- Ai đấy?
Nghe mấy anh nói với nhau, tự dưng tim tôi
đập rất mạnh.
- Ai đấy hở, các ông?
- Ngân!
Chao ôi, anh Ngân! Cái chăn vẫn phủ kín mít, kín quá.
- Ngân
quản lý à?
- Ừ... À
không, về làm lính chiến đấu ở Lô Cốt hơn mười ngày nay rồi. Lính pháo đấy.
- Vẫn
chưa tỉnh.
Đến chiều,
tôi lại đứng lên lần nữa để nhìn sang giường anh Ngân. Đứng nhìn thật lâu, quên
cả cơn đau dưới chân mình. Bác sĩ thấy vậy, liền đưa tôi sang giường anh Ngân.
Tôi run run nép vào bên anh. Anh thở nhẹ, quá nhẹ. Bác sĩ nói:
- Căng quá, trường hợp Ngân khó lắm…
Một anh
khác nói:
- Cậu ấy quê ở đâu nhỉ? Bị vào đầu, chắc
chả nhớ nổi.
- Có
khi chả nói được câu nào nữa đâu.
Tôi muốn
nói quá. Muốn nói quê anh ở miền núi. Tôi nhớ lại hồi mới ra đảo, tôi đến ở với
anh. Trước cửa nhà có cây sang sang. Anh kể cho tôi nghe những chuyện thật đẹp về
miền quê anh. Miền quê anh có lẽ đang dần xa anh thêm, xa thêm mãi…
Lại một
ngày nữa trôi qua trong lo lắng của tôi. Tôi khoẻ hơn chút ít. Anh thì lại càng
lặng im. Mặt anh sau lớp băng trắng, đôi chỗ máu thấm đỏ. Có mấy anh ở Lô Cốt
ghé thăm bọn tôi.
Mọi người
nhìn anh Ngân bằng ánh mắt đầy lo buồn. Tôi cũng nhìn anh. Khuôn mặt thân yêu
chỉ là những cấm đỏ, đỏ ghê lắm.
Đột nhiên,
những chấm đỏ rung rung, rung thành tiếng khẽ khàng:
- Các cậu ơi… Có sao không?
Mọi người
nhìn vào những chấm đỏ.
- Bọn mình không sao. Hạ được một thằng
nữa cho cậu, Ngân ạ.
- Ngân ơi! Ngân…!
Những chấm đỏ. Tôi và mọi người nhìn không
chớp vào những chấm đỏ. Đỏ ghê lắm!...
Mọi người ngả mũ. Những cặp mắt muốn nói
một điều gì với khuôn mặt yêu quý. Khuôn mặt, là những chấm đỏ đầy linh hồn
kia.
Khắp cả đảo im ắng. Chỉ có nắng và gió
bao la trên bầu trời xứ đảo.
Chiều hôm ấy, những người lính Hòn Mê đưa
anh Ngân đi. Tôi cố bám vào anh, bám rất chặt. Một anh đặt tôi xuống đất. Đến lúc
ấy anh Ngân còn làm được một điều kỳ diệu: làm cho tôi đi được! Tôi muốn đi
theo anh, nên đi ra cửa hầm, để nhìn theo anh được nhiều hơn, Ngay bên cửa hầm
quân y cũng có cây sang sang. Mùa thu, lại đúng cữ mùa thu, cây sang sang có những
lá đỏ lấp lánh, những lá trên cao như đỏ thấm vào nền trời xanh. Khắp đảo này, đúng
rồi, khắp đảo chỗ nào cũng có cây sang sang. Loài cây gỗ rắn rỏi có thể vững vàng
trước bão giông. Tôi nhìn theo anh Ngân, tựa vào cây, nhìn theo. Cây sang sang
trong nắng và gió mừa thu. Những chấm đỏ thắm trong bóng mát, đỏ ngời ngời dưới
ánh nắng mặt trời. Tôi nhìn cây, rồi nhìn theo anh, lại nhìn cây, thấy cây thì
thào trên đầu. Tiêng cây sẽ sàng như gió đưa ra:
- Cây không hề khóc bao giờ…
“Tôi không
khóc!”
Tôi còn
nhìn theo anh Ngân, nhìn sắp ướt nhoè mắt. Tôi tựa vào cây. Để được cây đỡ lấy
trong cơn yếu mệt. Và để không khóc. Trên đầu tôi là vầng lá cây sang sang to lớn.
*
*
*
Cho đến
lúc tôi ra viện thì đã là mùa đông.
Tôi lại
trở về cao điểm Lô Cốt. Ở Lô Cốt, tôi cảm thấy được gần anh Ngân hơn. Các anh ở
đây có ý bồi dưỡng cho tôi. Những anh lính ở mấy đơn vị xa thỉnh thoảng cũng gửi
cho tôi quà. Nhưng chả thể làm dịu được nỗi buồn của tôi. Đi lại thơ thẩn và nhìn
loanh quanh, tôi cứ tui tủi. Các anh lại càng thương hơn, chăm tôi ăn uống rất
chu đáo. Tôi béo lên nhiều so với cả trước khi bị thương.
Mùa đông này đối với tôi quá nặng nề. Một
thời gian dài không hoạt động làm cho tôi cảm thấy mình thừa trong cuộc sống trên
đảo. Dịp này, có một anh lính mới được bổ sung về Lô Cốt. Anh rất trẻ, ngay buổi
đầu đã đến bắt tay tôi.
- Buồm Nhỏ đây à?
Tôi nhìn anh, quần áo mới tinh tươm.
- Trung sĩ phải không? Quân hàm, quân hiệu
đâu?
Anh chả
hiểu gì cả, lính mới có khác. Cứ trông mọi người xem, đánh nhau với giặc rách cả
áo ra ấy chứ. Ai lại lúc nào cũng đeo quân hàm, quân hiệu bao giờ. Trách nhiệm ở
trong lòng cơ, anh lính tò te ạ. Tôi muốn nói với anh những ý nghĩ ấy, nhưng thôi,
rồi đánh đấm vài lần thì anh sẽ biết.
Anh lấy
bánh mật(*) ra cho tôi ăn. Mới ở đất liền
ra có khác, còn có thứ bánh mua ở chợ làng, gói lá chuối hẳn hoi. Anh mời quá xởi
lởi:
-Trung sĩ ăn một miếng cho vui.
……………..
(*): Loại bánh làm bằng bột nếp trộn với mật mía.
Tôi nể tình, chấm lưỡi qua loa miếng bánh
cho anh vui lòng. Rồi tôi lặng lẽ đi thơ thẩn. Lúc tôi quay trở lại, thấy anh lính
mới nhìn theo từng bước chân của tôi. Theo từng bước tôi đi, anh nhăn mặt xuýt
xoa:
- Đau quá… Đau quá…
Không,
tôi có đau chân đâu. Tôi chỉ thấy bức bối trong lòng vì đang phải chập chững tập
đi từng bước như ngày còn bé tẹo. Tôi luôn có cảm giác là anh lính mới lúc nào
cũng nhìn mình. Đang đứng trên mâm pháo, tôi quay lại, thấy ánh mắt ái ngại của
anh. Lập tức, tôi lao mình xuống. Ôi! Lâu lắm tôi mới lại tung mình lên không
trung. Chung chiêng quá, và, tôi lăn tròn trên
nền đất. Anh lính mới thốt kêu lên:
- Buồm
Nhỏ!
Tôi gượng
lên ngay, và chỉ muốn tránh ánh mắt xót thương của anh.
Tôi đi
ra nằm ở mé sau nhà, quên cả đau. Phải tập từ đầu thôi, tôi phải tập. Tôi nhớ lại
những bài học đầu tiên chị Hoàn dạy cho. Dùng đôi vuốt vồ chụp lấy và dùng cả
nanh, như hồi cướp quả bóng xanh đỏ ấy. Tôi thấy phải bắt đầu luyện tập ngay.
Những buổi sáng, những buổi trưa, và cả những buổi chiều, tôi mải mê luyện tập.
Không được như xưa nữa, bây giờ tôi cụt một chân rồi. Hễ từ trên cao hạ xuống là
ngã qụy. Đây là thử thách lớn nhất đối với tôi. Chưa quen, rồi sẽ quen. Phải cố
mà tập.
Anh lính mới vẫn rình xem tôi luyện tập
mà tôi không biết. Cho đến một hôm, thấy anh đem một nắm cơm ra rải ở ngách hầm
trước mặt tôi. Rải cơm xong, anh nhẹ nhàng bỏ đi. Một lúc sau, tôi thấy một thằng
chuột mò ra chỗ mấy hạt cơm. Tiếng anh lính nói rất khẽ đằng sau tôi:
- “F4H” nó đến đấy Buồm Nhỏ nhé.
Tôi phóng
ngay xuống
Nhưng, tôi
chỉ đè được vuốt lên kẻ thù, chưa kịp dùng đến nanh thì thấy trệt cả nửa người
sau xuống đất. Tôi nghiêng hẳn người sang một bên. Thằng F chuột đã nằm trong
tay rồi, lại vùng thoát mất. Tôi không kịp choàng dậy đuổi theo nữa, đành buồn
bực nhìn theo vệt bụi nó để lại.
- Buồm Nhỏ, đau không?
“Ồ, chưa
quen đấy thôi…”
Rất nhiều
cánh tay đưa lại phía tôi. Thì ra các anh lính đều để ý đến tôi. Tôi càng thấy
khổ tâm. Né tránh mọi sự an ủi của các anh, tôi lặng lẽ bỏ đi. Có lẽ các anh cũng
hiểu tâm trạng tôi nên rất nhiều ánh mắt nhìn theo dáng đi khập khiễng của tôi.
Anh lính mới chạy theo tôi, nói:
- Rồi dần dần sẽ thành công thôi mà…
Tôi đặt
nhẹ bàn tay mình lên bàn tay anh.
Hai ngày
sau, anh lính lại hiệp đồng tác chiến với tôi. Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Sẽ phải
cùng một lúc tung ra cả ba đòn. Khi lao vào kẻ thù, hai đòn của vuốt và một đòn
của nanh phải cùng khép chặt ngay. Tôi đã tiến công đúng như vậy. Nó vừa táp cái
mõm vào chỗ cơm anh lính rải sẵn, tôi nhào tới ngay, chính xác trong mọi động tác.
Người tôi trệt xuống đất, ngã nghiêng ra, nhưng kẻ thù đã bị tôi thít chặt rồi.
Nó la hét, giãy giụa, và chung quanh tôi đã vang lên tiếng reo mừng.
- Buồm Nhỏ đã hạ được “F105”!
Anh lính mới đưa tôi đi gặp khắp lượt đồng
đội, hả hê giới thiệu chiến công của tôi. Anh mô tả tỉ mỉ lại những đòn đánh của
tôi trong một đợt tấn công vừa rồi. Sau đó, anh công kênh tôi lên, đưa ra một vạt
đá có nắng trải, để liên hoan bằng mẩu bánh mật cuối cùng, lớp lá chuối gói bên
ngoài đã héo khô.
Tôi thấy bánh mật thật ngon. Có nắng ấm
nữa, nên càng ngon. Mùa xuân chớm đến rồi.
11.
Lại thuận buồm xuôi gió -
Thằng bạn mới
Tin tôi chiến thắng “F105” đần dần được
khắp đảo, rồi khắp cả quần đảo biết. Quà từ nhiều nơi liên tiếp gửi về cho tôi.
Và, các đơn vị cũng báo cáo với đảo trưởng rằng, nhân thời gian Buồm Nhỏ yếu mệt,
bọn chuột đã sinh sôi khá nhiều và phá phách ghê lắm.
Thế là tôi lại được lệnh lên đường. Anh
lính mới tiễn tôi đến tận chân dốc, trao tôi cho Đá Bạc, chúc một câu:
- Thuận buồm xuôi gió nhé!
Tôi tạm
biệt anh. Gió mùa xuân dịu dàng thổi trên khắp xứ đảo.
Ở Đá Bạc,
các anh lính rất thích lối đánh mới của tôi. Mấy hôm sau, trên tờ báo tường của
Đá Bạc có hình vẽ tôi trong lúc tiến công kẻ thù với dòng phụ đề: “Buồm Nhỏ với
ba đòn phối hợp trong mỗi đợt tấn công!”. Các anh còn bàn tán, cho rằng tôi là
người duy hất trong loài tôi có cách đánh như vậy. Vì tôi thiếu một chân đấy.
Khi tôi chuẩn bị chuyển tới Khe Sâu, những người
lính Đá Bạc đã gói cho tôi hai con cá rán hẳn hoi, đem theo để ăn đường.
Ở Khe Sâu,
tôi cũng được đưa lên mặt báo của đơn vị. Còn tới ghềnh Chàng
Mong – Nàng Đợi, tôi có hơi bị lúng túng trong
trận đầu. Khi tôi nhào tới tấn công thằng chuột đầu tiên, nó giãy mạnh và thoát
được. Các anh lính nhìn tôi lăn chiêng từ quả bí ngô xuống đất, nói vẻ ái ngại:
- Tại vì
quả bí ngô nó chao đi đấy.
Các anh
nói đúng. Ngay chiều hôm đó tôi đã chiến thắng, được các anh vỗ tay như pháo
rang.
Lại một
cuộc tiễn đưa nữa. Gió thổi thênh thang trên mặt biển mùa xuân, êm ả lấp lánh.
Ngồi trên thuyền vẫy vẫy tay chào các anh lính trên bờ, tôi đi sang Hòn Dơi. Các
anh vẫn đứng trông theo khi thuyền tôi đã
ra xa. Nhìn lên, thấy những cây sang sang trên đảo Mê, tôi nhớ anh Ngân vô cùng…
Chuyến đi lần lượt tới các đảo nhỏ đầy hào hứng này kéo dài
hơn hai tháng. Tôi trở về Hải Đăng vào một buổi chiều báo động toàn đảo. Đêm ấy,
ngọn đèn biển vẫn sáng trên tháp cao. Tôi làm việc của mình một cách nhanh, gọn. Thêm hai ngày nữa thì đã sạch bóng
bọn chuột ở Hả Đăng. Những nòng súng ở các cao điểm khác lại giương cao. Ngồi
trên tháp đèn, tôi nhìn khá rõ một số cao điểm trên đảo. Nhìn về Lô Cốt, thấy vạt
hoa đã nở đầy, lay lay trong gió. Thế là mùa hạ rồi.
Hai anh
ở Hải Đăng đang kháo nhau về tin nhà. Một anh, rồi cả anh kia nữa, đi lại chỗ tôi.
- Buồm Nhỏ nhớ nhà à?
- Đã
muốn về phép chưa? Hay lại muốn về Lô Cốt?
Các anh
ngồi xuống bên tôi, mỗi người một bên. Chúng tôi nhìn về Lô Cốt. Cả đảo lớn Hòn
Mê là một vùng đồi núi với những vùng cao, thấp khác nhau, vùng xanh thẫm, vùng
xanh nhạt. Có những chỗ đá đảo lở lói vì bom đạn, trắng loá. Có những vạt cây bị
bom đốt cháy, nhiều thân cây đen đúa chĩa lên trời. Bầu trời xanh bao la. Gió từ
đại dương thổi qua đảo đá này và dào dạt xuôi về phía đất liền.
*
*
*
Tôi định
đến chiều thì rời Hải Đăng để về Lô Cốt. Nhưng buổi chiều trời đổ mưa giông. Về
đêm thì mưa còn lớn hơn, gió quật mạnh gần như bão.
Hai anh
ở Hải Đăng thức rất khuya, nên thường dậy muộn. Tôi thức dậy trước, buổi sớm
mai trong tĩnh đến mức không nghe tiếng động gì ngoài hơi thở của mình. Dường như nước biển đùa nghịch suốt đêm, giờ
nằm ắng lặng dưới chân đảo. Tôi đi lững thững ra đến bờ đá, ló đầu nhìn xuống
biển. Và tôi nhìn thấy một thằng khỉ đang ở dưới nước, nó đang kêu những tiếng
nho nhỏ, yếu ớt, run rẩy. Tôi lần lần đi xuống dốc đá. Đôi khi vấp, chân tôi làm
một hòn đá lăn cộc cộc rồi rơi tòm xuống biển. Nước bắn toé lên, thằng khỉ đáp
lại bằng một tiếng kêu nhỏ đầy sợ hãi.
Tới mép
nước, tôi thấy thằng khỉ còn cách bờ biển một quãng ngắn. Nó víu bám trên một cành
cây mục. Cành cây cứ dập dềnh khiến nó luôn phải loay hoay, ướt lướt thướt. Tôi
gọi với ra:
- Này!
- Ché,
ché…
Nó rên, chắc là sợ hãi đấy thôi, tôi ngĩ
vậy, rồi bảo nó:
- Đừng lộn tùng phèo thế kia nữa, ướt thêm
đấy.
Nó vẫn
rên và vẫn lộn tùng phèo. Khổ thật, chỗ đít bị tôi đá ngày trước vẫn còn đỏ thế
kia. Dưới biển chắc là xót lắm. Tôi bảo cố mà bơi vào, nhưng nó vẫn cứ loay
hoay một chỗ.
Không còn
cách nào khác, tôi chạy lên nhà để gọi hai anh Hải Đăng. Vừa lúc hai anh đang đi
tìm tôi. Tôi liền kéo tay các anh, đi xuống dốc ngay. Đến mép nước, họ thực sự
ngạc nhiên:
- Ô, khỉ. Con khỉ con, sao thế này?
- À, chắc
đêm qua cu cậu đang ngủ trên một cành cây, bị gió tạt rơi xuống biển, rồi giạt đến
đây. May mà còn biết bám vào một cành cây.
Nói với nhau thế, rồi hai anh vớt khỉ
con lên. Một anh bế nó, một anh bế tôi, đi lên nhà. Bước vào nhà, thấy nó có vẻ
đỡ mệt tí chút. Các anh lấy cả khăn mặt lau cho nó. Tôi nhìn nó, ướt mèm và bé
tí ấy. Tôi thấy thương thằng khỉ, nên cũng đưa tay ra lau lau cho nó. Hai anh Hải
Đăng nhìn tôi chăm sóc nó, tủm tỉm cười. Thằng khỉ đã bớt sợ, nhưng vẫn còn run
lẩy bẩy. Các anh đưa nó lên giường, đắp chăn ngang ngực nó. Lúc sau, nó ngủ thiếp
đi như một đứa bé tí xíu.
Buổi chiều, khỉ con đã khoẻ hẳn và bắt đầu
muốn chơi với tôi. Nó còn định lấy tay lau người tôi, làm như tôi bị ướt ấy. Các
anh Hải Đăng cười phá lên:
- Buồm Nhỏ kiếm được bạn rồi đấy. Hay quá!
“Tôi thấy cũng hay”.
Lúc này
trông con khỉ thật hiền lành. Tôi chơi với nó một lúc lâu. Trong khi ấy, hai
anh Hải Đăng vẫn bàn tán.
- Ta giữ nó lại đây cho vui vậy.
- Phải
có kế hoạch tập tành cho nó, nó mới ngoan.
- Buồm
Nhỏ, để người bạn này lại cho bọn tớ nhé. Có các bạn, đảo Mê này vui thêm bao
nhiêu.
“Vâng.
Tốt thôi”.
Nắng đẹp rồi, tôi phải rời Hải Đăng. Hai
anh và khỉ con đưa tiễn tôi xuống tận chân tháp đèn. Tôi về cao điểm Lô Cốt.
12.
Gặp lại ông -
Chuẩn
bị đi phép
Đến Lô Cốt, anh lính mới chạy ra đón tôi.
- Trung sĩ Buồm Nhỏ đã về đến đơn vị rồi!
Tôi đưa
tay cho anh bắt. Bàn tay đã rám nắng gió và nước da anh có phần cứng cỏi hơn một
chút. Nhưng anh vẫn còn mới nguyên tò te như thế. Vì anh chưa qua chiến trận đấy
thôi.
Không
phải đợi lâu lắm nữa. Ngay chiều hôm đó khói lửa lại bùng bùng khắp đảo, liên
tiếp mấy ngày liền. Tôi thì đã quen với cảnh này rổi, nhưng thấy cần quan sát
xem anh lính mới vào trận thế nào. Anh tiếp đạn rất hăng, nhưng còn hơi vất vả,
lật đật do vẫn có nhiều động tác thừa. Sau một vầng khói mù mịt vừa bùng lên, tôi
nghe tiếng khẩu đội trưởng hạ lệnh:
- Số hai bị choáng. Tiếp đạn lên vị trí
số hai.
- Có số
hai!
Tôi nghĩ
về anh lính mới đang bước vào thử thách thực sự của người lính. Những tiếng nổ
rung chuyển, như là câu trả lời anh lính gửi tới tôi, “tớ đây, tớ đây…”
Buổi trưa,
tạm ngừng bắn khi máy bay đã đi xa. Anh lính mới vào chỗ tôi, đưa tay cho tôi:
- Hôm nay tớ vào số hai tốt rồi đấy nhé.
Tôi bắt
tay anh, bàn tay xám xịt khói và có phần chắc chắn. Cũng có thì giờ tán đôi ba
chuyện. Nhưng, chúng nó lại kéo đến, lần này rất đông, từng đàn, từng lũ từ bốn
phía nhào xuống Hòn Mê. Lệnh truyền khắp đảo cho biết chiến dịch này có thể còn
kéo dài.
Quả đúng
thế. Với Hòn Mê, kỳ này có điều mới hơn là đất liền quyết không để đảo bị thiếu
thốn. Điện trong đất liền báo ra rằng, đội thuyền gồm những người dũng cảm và
thông thạo nhất về luồng lạch trên biển đã quyết tâm ra đảo trong mọi tình huống.
Đến ngày thứ hai mươi của chiến dịch thì có tin là thuyền đất liền ra, đang hướng
vào vịnh Hòn Đót. Thuyền đi như thế nào qua vòng bom đạn? Các thủy thủ vừa chèo
lái vừa nã súng vào máy bay như thế nàò? Trong lúc các anh lính đảo hạ gục máy
bay, bắn cháy tàu chiến Mỹ, thì đội thuyền tiếp tế có chiếc vỡ mạn, có chiếc rách
cả buồm…
Khi đó,
lính Hòn Mê đã cạn nước uống. Bỗng những cổ họng đang khát cháy reo vang lên:
- Thuyền đã tới rồi!
- Hoan
hô đất liền!...
- Lập
thêm chiến công để chào đón đất liền.
Suốt cả
tiếng đồng hồ tôi cứ nhấp nhổm, muốn nhìn thấy đất liền ra đảo như thế nào. Và
suốt cả tiếng đồng hồ ấy, vẫn không ngưng bom đạn.
Chập tối, tạm ngừng báo động. Nghe nói
thuyền đất liền đã ghé vào bến tiếp tế cho đảo rồi. Đang rất nôn nóng, chợt được
lệnh của đảo trưởng cho phép tôi xuống đón người thân từ đất liền ra thăm. Tôi
mừng run cả người, theo một anh lính đi ngay.
Xuống đến nơi. Cảm động quá đi mất, là ông.
Tôi choàng sang lòng ông. Ông đón lấy tôi, mừng quấn quít:
- Miu! Miu!...
Ồi, ông
vẫn còn gọi cái tên ngày bé của tôi! Bây giờ là Buồm
Nhỏ đây mà, ông ơi. Tôi đưa cả người ra ôm lấy tay ông.
- Chân bị thương hồi nào thế này?
Tay ông nắn nắn chỗ chân cụt của tôi.
- Ông có nghe nói… Thế này mà vẫn lập công,
phải không?
Thì ra ông
đã biết rồi đấy. Tôi giụi mãi mái đầu mình vào tảng ngực ướt đẫm nước biển của ông.
Ông nói:
- Máy bay Mỹ nó té ướt ông đấy.
Tôi hiểu,
chắc thuyền ông đang đi, bị bọn nó đến ném bom.
- Không hề gì đâu. Ướt tí tẹo ngoài da
thôi. Ra được đảo lúc này mới yên tâm.
Tôi lau
lau vai ướt, ngực ướt cho ông. Ông cũng sờ nhè nhẹ dọc sống lưng tôi.
- Ừ, mập mạp thế này mà con Hoàn nó cứ
lo gầy yếu.
Nước trên
vai, trên ngực ông mặn quá, tôi rất thương ông đã vất vả vì chúng tôi.
- Phải về nói cho con Hoàn biết để nó yên
tâm. Nó bảo hay nằm mơ thấy con lúc nào cũng đi ngang dọc trên biển. Phải vậy
không con?
Ôi! Chị
Hoàn cũng biết rồi đấy thôi.
- Lên chức trung sĩ rồi, phải không?
Ông vừa
vuốt ve tôi, vừa cười vui. Thế là ông biết hết cả rồi.
- Có muốn về phép không nào?
Lúc ông
hỏi câu ấy, có tiếng máy bay ầm ì phía chân trời. Ông cũng nghe thấy, nói:
- Đó, lại tiếng bọn nó.
Tôi thì
đã quen thứ tiếng đó rồi. Kệ nó thôi, ông ạ. Muốn nhìn về đất liền quá. Đất liền
kìa, tôi nhìn về phía đất liền xa mờ trong hoàng hôn. Một hoàng hôn mùa hạ với
ráng chiều hừng lên màu da cam lộng lẫy.
Ông ôm
ghì tôi vào ngực. Tôi thở mạnh và nhận thấy mùi vị quen thuộc từ ngày xưa, mằn
mặn, thơm thơm. Mùi thơm từng ấp ủ tôi từ cái ngày tôi chưa khôn lớn. Giờ thì lớn
rồi, ông ạ, trung sĩ rồi… Ít phút sau, ông xuống thuyền trở về đất liền trước
khi trên đảo lại có một trận đánh mới. Tôi chưa muốn theo ông về phép ngay. Lẽ
nào tôi có thể rời đảo giữa kúc ác liệt này.
Hai tuần
sau, tôi được lệnh di phép.
Đối với
người lính trong chiến tranh, những chuyến đi phép hầu như không nằm trong quy
chế nữa. Đôi khi nhớ nhà, thì mong có phép. Mong, là để kháo nhau cho đỡ nhớ nhà
thôi. Nguôi nhớ rồi lại tiếp tục đánh đấm. Nếu như tự dưng có anh lính nào ở đảo
được cấp trên báo cho đi phép, thì lại bần thần không muốn tạm biệt đồng đội.
Tôi hơi
ngỡ ngàng khi cấp trên cho mình đi phép, theo yêu cầu của chị Hoàn. Nghe đâu chị
Hoàn vừa gửi thư cho đảo trưởng. Nhớ chị Hoàn lắm, nhưng lúc này tôi thấy mình
khăng khít với các anh ở đảo quá. Anh lính mới, sau chiến dịch vừa qua đã trở
thành một người lính chiến thực thụ. Anh đến bên tôi, nói:
- Ngày mai trung sĩ về phép đấy nhé. Rồi
ra chong chóng, không kẻo mọi người lại nhớ.
Tôi nhìn
chỗ vạt áo nám đen của anh. Là do khói súng nó nám vào đấy. Anh lắc lắc tay tôi:
- Mai mang quân hàm, quân hiệu, huân chương,
huy chương cho đàng hoàng. Người ta sẽ đưa Buồm Nhỏ xuống tận bến thuyền nhé.
Tôi nhận
thấy, anh xưng hô với tôi thật giống anh Ngân ngày trước.
- Về quê, phải thật chững chạc nhé.
Nói rồi
anh ra bồn hoa chọn những bông hoa đẹp nhất, ưng ý nhất, kết thành vòng, quàng
lên cổ tôi.
Mấy anh
khác bắt đầu xúm quanh.
- Trung sĩ, vui quá!
- Về phép
càng phải có tư thế.
- Xin bắt
tay Buồm Nhỏ cái nào!...
Tôi bắt
tay tất cả các anh, lần lượt ôm lấy cổ từng anh.
- Về quê nhớ kể hết các chiến công cho đất
liền nghe nhé.
Các anh
cười rất vui. Tôi cứ qua hết tay anh này đến tay anh khác. Nắm những bàn tay
nhau mà lắc lia lịa, dù rằng mãi sáng mai mới có cuộc chia tay…
Cho đến
rõ khuya các anh mới đi ngủ. Tôi vốn thức khuya, đêm nay còn muốn thức khuya hơn.
Ngày mai tôi đã tạm xa các anh rồi.
Buổi sớm
mai. Tôi dậy sớm hơn mọi hôm, sớm hơn mọi anh lính khác. Tôi ra chỗ bồn hoa, vì
muốn nhìn thật lâu, thật nhiều hơn nữa mảnh đất tôi sống bấy lâu nay, xứ đảo tôi
đi lại dọc ngang bấy lâu nay, trước khi lên đường đi phép.
Đoạn
kết
- Nhưng, chuyến đi phép của Buồm Nhỏ không
bao giờ thực hiện được. Như Hoàn biết đấy, Buồm Nhỏ hy sinh ngay trong buổi sáng
sớm, lúc sắp sửa đi phép…
Giọng
người sĩ quan chỉ huy bộ đội đảo Mê trầm xuống, cảm động. Bây giờ Hoàn mới có dịp
nhìn kỹ anh. Đó là một người người lính trạc gần ba mươi tuổi, có gương mặt đen
xạm, khắc khổ. Anh là người có tuổi đời cao nhất trong số các anh lính đang có
mặt trên Hòn Mê. Lâu nay mọi người gọi anh bằng cái tên thân mật “Đảo trưởng”.
Suốt thời gian kể những chuyện về Buồm Nhỏ, đôi
mắt anh luôn biểu hiện một tình cảm đặc biệt đối với chú mèo đã hy sinh. Điều ấy
khiên Hoàn càng nghe càng xúc động.
Tám năm
đã trôi qua, kể từ cái ngày Hoàn vui mừng, hồi hộp chuẩn bị đón Buồm Nhỏ về phép ấy. Bây giờ, Hoàn đang là sinh viên trường
Đại học Tổng hợp. Cô ra đảo Hòn Mê để tìm thêm tài liệu viết luận văn tốt nghiệp,
và cũng để được hiểu thêm về chú mèo mà ngày xưa mình gửi tặng hòn đảo anh hùng
này.
Gặp người lính đảo nào Hoàn cũng hỏi thăm
về Buồm Nhỏ. Và người lính đảo nào cũng kể về Buồm Nhỏ với một tình cảm thật hồ hởi. Cứ như là họ đã sống
và chiến đấu cùng người bạn tuổi thơ của cô vậy. Họ còn cho cô xem cả những tờ
báo tường lính ta làm từ hồi Buồm Nhỏ là lính ở đây,
hiện lưu giữ trong nhà truyền thống của đảo. Hoàn nghe các anh lính đảo kể những
chuyện mang mầu sắc huyền thoại về Buôm Nhỏ với
sự biết ơn tận đáy lòng. Nhưng chỉ khi được gặp đảo trưởng, được nghe anh nói về
Buồm Nhỏ, Hoàn mới thực sự cảm động, như được thấy
lại người bạn thân yêu thời thơ ấu của mình…
Hoàn buột miệng hỏi:
- Anh là…?
- Tôi là
người lính đầu tiên được thấy Buồm Nhỏ diệt chuột
sau khi đã bị mất một chân. Dạo ấy, tôi vừa đặt chân tới đảo, còn bỡ ngỡ. Sự có
mặt của Buồm Nhỏ động viên chúng tôi rất nhiều.
Hồi thơ
ấu, ở làng chài quê nhà, Miu sống với ông, bà, bố, mẹ và với Hoàn như một đứa
em. Rồi ra đảo Hòn Mê này, Miu đã có tên là Buồm Nhỏ, và có thêm thật nhiều người
thân yêu. Hoàn cảm động nghĩ về quãng đời đã qua, từ Miu đến Buồm
Nhỏ. Và cũng nghĩ đến những người bạn thân thiết của Buồm
Nhỏ trên Hòn Mê này, đã ngã xuống, như anh Ngân. Cùng với họ, Buồm
Nhỏ đã trở thành bất tử…
Hoàn cùng đảo trưởng đã tới bồn hoa trước
cao điểm Lô Cốt. Đảo trưởng đến bên một khóm hải đường có những bông hoa cánh hồng
tươi dầy dặn. Anh khẽ vuốt ve đám lá xanh, rồi nói tiếp:
- Chúng tôi đặt Buồm Nhỏ nằm ở đây, ngay
dưới gốc cây hải đường này. Mấy cậu lính trẻ kháo nhau rằng từ ngày ấy, hoa ở đây
bỗng đẹp hơn trước. Tôi cũng cảm thấy như thế.
Hoàn đứng
lặng bên bồn hoa. Một nỗi xúc động thật thiêng liêng cứ trào dâng mãi trong lòng
cô. “Buồm Nhỏ ơi! – Hoàn thầm gọi – Em thật xứng
đáng là một chiến sĩ của hòn đảo anh hùng này!” Biết Hoàn còn đưa tay lên lau
khoé mắt, đảo trưởng không nói gì thêm nữa. Trước khi Hoàn về đất liền, anh mời
cô đi thăm thêm một số cao điểm nữa trên đảo Hòn Mê.
Hoàn nghĩ,
sao mà lạ lùng, hồi mới vào học năm thứ nhất, cô tình cờ được đọc bài thơ Đời
cây sang sang trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà thơ đã ví người lính đảo
với cây sang sang, rất cảm động, nhất là khổ kết, đến giờ cô vẫn còn nhớ:
Mùa
hạ xưa có anh lính bị thương
Anh
tựa gốc cây, máu amh chảy xuống
Nay
thu về, lá cây đỏ lấp lánh
Đỏ
thấm mây xanh, như hoa nở trên trời...
Trên đường đi thăm một số cao điểm trên đảo,
Hoàn lại nhớ tới Buồm Nhỏ, và cũng nhớ tới bài Đời cây sang sang. Đường đi lên dốc dốc. Hoa dẻ thơm
quanh quất, tiếng chim cu ghì gọi nhau trầm buồn như một nỗi nhớ thương. Chưa đến
mùa thu, những cây sang sang còn giấu màu đỏ trong thân gỗ. Hoàn thấy đảo đá
xanh tươi và hùng vĩ quá. Nhưng lòng cô thầm mong sẽ được đến Hòn Mê vào mùa
thu, để được thấy đảo đẹp hừng lên trong màu lá sang sang.
Hôm chia tay các chiến sĩ Hòn Mê, Hoàn đã
đọc tặng các anh bài thơ Buồm Nhỏ. Bài thơ cô viết
trong đêm hôm trước ngày tạm biệt đảo, cho đến bây giờ vẫn được lưu truyền:
Đi từ thơ ấu của tôi
Mà qua hết những xa xôi bến bờ
Nào hay Buồm Nhỏ bây giờ
Đưa tôi về quãng ngày xưa của mình
Tôi tin Buồm Nhỏ, tôi tin
Biển còn giới hạn, trái tim vô cùng
Tôi thương Buồm Nhỏ, tôi thương
Một thơ ấu mấy năm trường gian lao
Tôi yêu Buồm Nhỏ, tôi yêu
Một mỏng mảnh chứa rất nhiều lớn lao
Buồm Nhỏ như giấc chiêm
bao
Đời dầu dãi vẫn ngọt ngào tuổi thơ...
Quảng Bá, cuối thu năm 1977.