Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

Lê Ngọc Minh - Người đi hồn vẫn dãi dầu gió quê




Nhà văn Lê Ngọc Minh

1.
Còn nhớ hồi Nguyên tiêu 2014, tôi đang ở hội thơ xứ Thanh thì nghe Lê Ngọc Minh gọi phôn từ Hà Nội với giọng hốt hoảng lo lắng hỏi chuyện thực hư về tin đồn đang rộ lên, Hòn Mái trong cụm đá Trống Mái Sầm Sơn bị lung lay xê dịch(1).
Hỏi thế rồi hôm sau Minh về quê, nhắn tôi xuống nhà. Hai chúng tôi đèo nhau bằng xe máy trên con đường trải bê tông nhựa còn đen bóng. Trước lúc đi, Minh gấp cẩn thận cái túi nâu, vải cũ nhưng mềm rồi ấn sâu vào tận đáy túi xách, nói là để kiếm ít sỏi trắng và cát về rải cạnh lối ra vườn trước sân nhà. Trên đỉnh 79, nơi cao nhất của dãy Trường Lệ, chúng tôi có thể nhận ra bóng dừa bóng cau thấp thoáng và những khoanh ruộng lúa ngô lúp xúp của các thôn làng ở đông bắc huyện mình. Hòn Trống Mái nằm ở phía dưới chân đồi 79, cách chừng ba trăm mét gồm một phiến đá rộng bằng năm chiếc chiếu đôi, trên đó có hai hòn đá màu nâu đen. Truyền thuyết kể rằng, thần linh đã hoá đôi vợ chồng trẻ, nghèo nhưng thương nhau thành đôi chim đá, biểu tượng vĩnh hằng của hạnh phúc lứa đôi. Hòn đá lớn tượng trưng cho Trống hơi nghiêng về phía đông. Hòn nhỏ hơn, chênh chao mộng mị là Mái đậu phía tây. Nhưng rất có thể, xứ Sầm Thôn xưa bọc bao bởi dãy Trường Lệ đã được tạo hóa chọn làm nơi giáng thế Trống Mái để dương âm kết phối biểu trưng sinh thực khí cho vạn vật giao hoà. Bây giờ mặt đá đã không còn lởm nhởm sù sì. Phải khó nhọc lắm, người trông coi khu thắng tích tuổi còn khá trẻ mới có thể ngăn đám trẻ trông rất bựa đang giơ tay kiễng chân túm níu Trống Mái để chụp hình, quay clip; tệ hơn nữa, vài cô cậu còn dán đôi tờ tiền lẻ vào bờ hông phiến đá rồi kí nhoằng phía dưới để cầu hên. Khi đám trẻ đi rồi, anh ta phàn nàn, Hòn Mái bị xê dịch chừng gang tay đã hơn một năm nay rồi. Tôi bảo chắc đây là điềm báo của động đất và sóng thần. Anh cười, cái cười như không thoả mãn với nhận định của tôi. Lê Ngọc Minh chọn vị trí xa hơn để có thể nhìn toàn cảnh Trống Mái và trò chuyện với mấy cụ già bán đồ vàng hương giây lát trước khi xán tới gần hai hòn đá. Sự dịch chuyển của Hòn Mái là có thật. Có lẽ từ sự di dịch này, ông bạn tôi đã nhận ra điều gì nên đôi mắt bỗng trở nên thăm thẳm ưu tư. Tưởng thế là xong việc, thì bất ngờ, sáng hôm sau, vừa ngủ dậy, mở máy đã thấy trong mục tin nhắn, Minh gửi cho tôi bài thơ lục bát có những câu đầy tâm trạng:
Cúi đầu ly đấng cao xanh
Tin Hòn Mái chẳng an lành
Là không!
Cảm giác bất an về Hòn Mái của Lê Ngọc Minh lan sang cả tôi, ngẫm cái thảng thốt của câu thơ, tôi càng ngộ thêm ra nét dáng của bạn mình. Cũng lạ thật, cái anh nhà văn dáng lui cui, ánh cười dấu trong đáy mắt, thật đa đoan lắm nỗi; đi lính được sáu ngày đã ra đảo Mê làm pháo thủ đại bác 105 li. Ở đảo làm thơ viết báo để rồi được nhấc về trung đoàn 57, dạy văn hóa, phụ trách tiết mục cho đội Tuyên truyền văn hóa văn nghệ mỗi năm tập trung từ bốn đến năm tháng, trước khi được điều về bộ phận viết sử và sáng tác văn nghệ cục Chính trị Quân khu 3; năm 1976 chuyển ngành đi du học rồi làm nhiều nghề: viết văn, viết kịch bản phim, dạy học và làm cả nghề vôi vữa đến chức thợ cả…, đã đặt chân tới nhiều miền của lục địa; thưởng thức cũng như chịu đựng và chứng nhân của bao biến cải; lấy thủ đô đất chật người đông làm quê hương thứ hai mà vẫn còn viết ra được những dòng thổn thức tình quê:
Đất người, nước lạ những đâu
Ta đi hồn vẫn dãi dầu gió quê
Lại nhớ, hôm từ hòn Trống Mái về, Lê Ngọc Minh dừng tôi ở làng Hoà Chúng quê anh. Minh chỉ ngôi trường trên nền đất cũ, nơi từ năm 1932, thượng thư bộ Học Nam triều đã về đây khánh thành trường tiểu học hai phòng đầu tiên của vùng đông bắc huyện Quảng Xương và cha anh, ông trẻ anh cùng ba người làng đã tốt nghiệp primaire (tiểu học) khóa đầu tiên. Minh kể về thầy giáo lớp I Lê Văn Thiêm. Ông thầy viết chữ đẹp nổi tiếng và có biệt tài xếp tên học trò không theo thứ tự A B C mà vẫn rất vần, rất dễ nhớ. Kể rồi, Minh đọc một mạch đủ sĩ số bốn tiểu đội lớp I của mình:
Ban, Chiến, Chính, Chất, Thăng, Thụ, Gắm, Hiến, Huê, Huỳnh, Hoàn;
Lúa, Lai, Nhuyện, Nhung, Vang, Phan, Sử, Quyết, Ngoan, Loan;
Nga, Ngoan, Thoan, Thước, Len, Đốc, Đó, Đông, Phơn, Vệ;
Vinh, Ba, Chiêu, Huynh, Tính, Dân, Lô.
Ngôi trường có bề dày đến hơn 80 năm với biết bao biến động dâu bể đang được Lê Ngọc Minh dùng làm nguyên mẫu để viết cuốn tiểu thuyết Động thổ mà chương mở đầu là một lễ động thổ bất thành vì dưới lòng đất nền trường bị phát hiện có bom nổ chậm, vì còn một bom nổ chậm nữa là những mưu mô ám muội nhằm tranh chấp đất đai được ủ mầm men từ cuối thập niên 1970.
Tiện đường tôi theo Minh về thăm nhà thờ bà cố Tổ chi ba, họ Lê của anh. Ông trưởng chi đi lập nghiệp trong Nam đủ bề khấm khá vừa vác về bạc tỷ đang xây mới hoàn toàn ngôi từ đường trên nền đất cũ, cột, xà, đòn tay, ván cửa toàn lim lõi nhập từ Lào về; đá lát, đá kê, đá cột hiên là đá xịn núi Nhồi - An Hoạch. Ông đưa ra đôi câu đối nói là sưu tầm ở một danh thắng trong Bình Dương nhờ Minh thẩm định để khắc treo ở hai cột cái nhà thờ. Minh đọc xong, nói luôn, đây là câu đối quốc doanh. Câu đối cho bà cố Tổ phải gắn với công lao, đức hạnh của chính cố thì mới thể hiện được tấm lòng kính yêu của con cháu đối với tiền nhân. Ông trưởng chi có vẻ phật ý, nói xẳng: “Chú chê thì biện cho câu khác đi!”. Minh lật mặt sau tờ giấy viết luôn: “Trọn đạo hiền thê giúp lập nghiệp cụ ông hiển hách / Hiếu tâm từ mẫu sinh thành giòng con cháu phúc vinh”. Viết xong, Minh đưa cho ông trưởng bằng hai tay. Ông này cầm luận một lúc lâu rồi nhìn Minh hoài nghi hỏi: “Chú lấy ở sách nào ra?”. Minh điềm đạm đáp: “Anh trưởng ạ, em tự nghĩ ra đấy!”. Ông trưởng trố mắt rồi dập luôn: “Không được! Chú có thể viết văn viết báo nhưng làm sao viết nổi câu đối? Câu đối phải cỡ cụ Nguyễn Khuyến, cụ Vũ Khiêu chứ, chú hơi bị liều đấy! Có mục hạ vô nhân không?”. Minh thưa lại, hoàn toàn không dám liều và giải thích nội dung trong câu đối, theo đó, bà cố Tổ một đời lo toan cho sự nghiệp công thành danh toại của ông cố Tổ và sinh hạ cho cố ông hai người con trai đặt tên là Hiển, Hách. Từ hiển hách vừa gắn với sự thành đạt của cố ông vừa là phúc phận các con Hiển và Hách của hai cố. Vế thứ hai, hậu duệ của hai cố giờ phần lớn đều phương trưởng và chiếm đến ba phần tư số hộ ở thôn Phúc, thôn Vinh. Nghe giảng xong, ông trưởng khoái tỉ vỗ hai tay và thốt lên: “ Trôi! Rất trôi!”. Ông thông gia của ông trưởng liền xin Minh một câu đối để treo ở từ đường. Minh hỏi yêu cầu, ông ấy nói, làm sao thầy thể hiện được cái ý con cháu làm gì thì làm nhưng đừng quên ông cha vất vả gây dựng. Minh xin tờ giấy mới và nắn nót viết theo hàng dọc: “Cha ông tích đức, dụng công xây móng nền vĩnh cửu. Cháu con noi chí, bền tâm dựng cơ nghiệp muôn đời”. Ông thông gia của ông trưởng chi Ba họ Lê nhận câu đối, đọc xong, ông xá Minh ba xá và xin chủ nhà mở rượu rót ra một chén, tạ Minh trước khi cả chủ và khách bốn người cùng uống.
Lúc ra ngoài đường, tôi hỏi Lê Ngọc Minh, tu nghiệp về câu đối từ bao giờ? Minh bảo, từ cái thời thầy giáo dạy văn Trương Ba giảng về Bình Ngô đại cáo. Theo Minh, phần lớn các câu trong thiên cổ hùng văn này là những chùm câu đối tuyệt hay. Minh dẫn chứng luôn: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...”; “Tát cạn nước Đông Hải không rửa sạch tanh hôi / Chặt hết trúc Nam Sơn không ghi đầy tội ác!...”.
Mới đây Lê Ngọc Minh có truyện ngắn Thầy giáo dạy văn trên báo Văn Nghệ, tôi đọc thấy bóng dáng thầy Trương Ba và những luận đàm giản dị mà sâu sắc về thể loại câu đối của thầy. Tôi cứ nghĩ tự ti, Minh đã học được rất nhiều chữ nghĩa từ người thầy dạy văn nức tiếng ở trường cấp 3 Quảng Xương I và sau đó là trường cấp 3 Lam Sơn.
2. Vào quãng giữa năm 2012, Thi Thanh Tao Đàn của Thanh Hoá được các bạn yêu mến văn chương tạo dựng. Mỗi lần tụ họp để nhận ấn phẩm, Lê Ngọc Minh lỉnh kỉnh sách vở bản thảo từ Hà Nội về, ngắn độ dăm ngày, lâu đến cả tháng nâm ni tại quê để chăm nom mẹ già và lo công việc. Căn chứng nhà nông chừng như rất khó bị trút bỏ khỏi con người này, lúc nào cũng rộn rạo viết lách và kết nối bạn bè rồi đi viếng chùa thăm đền, hỏi chuyện lễ lạt hương nhang giỗ chạp. Gặp lại đám bạn học hồi cấp 3 Quảng Xương 1, gần phân nửa có danh trong làng công chức hoặc thành tiểu gia, đại gia thuộc giới kinh doanh, khi được bạn bè hỏi công việc sau hưu, Minh cười và tếu táo nói: “Số tử vi của mình, nói như cụ Nguyễn Tiên Điền là số May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi, cưỡng lại khó lắm nên mình tự nhận là diện hưu trâu, hưu nhưng vẫn hì hục cày bừa, thứ nhất là đỡ cơm nhà, thứ nhì là có đồng ra đồng vào”. Rồi cao hứng lên, Minh triết luận bằng thơ: Tôi trần mình mỗi ban mai. Để không hối thẹn khi ngày hoàng hôn. Nhân chuyến đi thăm các bạn văn tại làng Quan Trạng có chợ Quăng nổi tiếng đất Hoằng Hoá, tôi tâm sự đang bị vợ con dụ ra Hà Nội sống, Minh nghe chưa hết đã nói ngay: “Tôi muốn về ở hẳn quê còn chưa xong, nhưng nếu ông quyết theo cái đạo: “Vợ ở mô thủ đô ở đó” thì cứ thế mà hành thiền”.
Lê Ngọc Minh rất thích tự tay nấu món đãi khách khứa, bạn bè. Khách đến là nhà Minh chộn rộn hẳn lên. Minh ngồi ở bàn pha trà mời khách nhưng hơn nửa tâm trí bị hút vào bếp, luôn miệng chỉ đạo từ xa mấy cháu phụ giúp việc ẩm thực rồi dường như chẳng thể yên tâm, Minh lỗi phép khách, xắn tay làm món: nào qua lửa thêm món cá chép kho nồi đất vùi trấu made in làng Vũ Đại, trứng gà chiên mỏng tang quấn nhân thịt trộn nấm hương cà rốt hấp cách thủy, nào món cá trê tẩm riềng bỏ lò; rồi cách pha nước chấm, cách chọn lựa và bày biện các thứ rau gia vị ăn kèm mà chỉ thoạt nhìn tôi đã thấy lắm lắm nhiêu khê. Nhưng khổ chủ thì khác, Minh không hề thấy mất công, mất việc vì cứ cho rằng, sự khoái khẩu, thú vị của bạn bè là niềm vui trời cho. Bởi thế, món đã lên mâm nhưng Minh vẫn chạy xe ra tận chợ Môi, cách gần hai cây số để mua bằng được quả chanh vườn mà lẽ ra có thể dùng trái quất để thay thế. Minh bảo, vị chua của chanh trở nên khác biệt nhờ vào cái hương của vỏ. Rồi khi nhấc chén đưa cay, có thực khách cầm nhánh rau má được tết kiểu trầu têm cánh phượng lên khen trước khi thưởng thức và hỏi về độ khéo tay, Minh nói, mới học được của restuorant Dạ Lan nổi tiếng trên tỉnh rồi ứng khẩu đọc luôn: “Ngày xưa rau má rau khoai / Đỡ lòng đứt bữa tháng Hai cơ hàn / Bây giờ rau má rau lang / Lên ngôi đặc sản nhà hàng gắn sao”. Cô cháu của Minh đang bổ sung thêm vào mâm món rau lang xào tỏi dầu hào khá bắt mắt và thơm đến nhức mũi liền góp lời tự thú, con cháu trong nhà thường hay bị bác Minh nhắc nhở vì chuyện lãng phí của ngọc thực trong khi bao nhiêu người còn đói rét, túng thiếu. Tôi đùa Minh: “Ông lại quan liêu rồi, ai giờ còn thiếu đói nữa mà cứ lo bò trắng răng!”. Minh cự luôn: “Tivi mới đưa tin, một tỷ đồng loại châu Phi đang chịu nạn đói triền miên, ở ta nhiều vùng đồng bào cũng đang được nhà nước cấp gạo cứu đói do nắng hạn ngày giáp hạt đó thôi!”
3. Quê Thanh Hoá nói lái kiểu dân đất Trạng thành tên một loài hoa: Hoa Thanh Quế; thói đời có không ít người muốn giấu nhẹm tông tích quê mùa, còn Lê Ngọc Minh thì chào nhau đã biết quê nhau, là Hoa Thanh Quế rặt màu đồng hương và chọn Hoa Thanh Quế làm căn cốt cho hoạt động sống cũng như sáng tác Ta đi hồn vẫn dãi dầu gió quê. Nẻo về mê đắm với những giá trị cũ càng bền chất của Lê Ngọc Minh thật đáng quý! Vẫn còn đó ngôi nhà, mảnh vườn, nơi mẹ ở vậy thờ chồng nuôi con cùng con ngõ nhỏ cát vàng ươm, lấm chấm cỏ dại. Nếu quá trưa bắt đầu từ Hà Nội, Minh theo xe tuyến Giáp Bát - Sầm Sơn thì gần cuối chiều sẽ xong cuộc hành trình; và, ngay tối đó ngôi nhà có em gái trông nom chăm sóc mẹ đã rộn lên những răng rứa tau mi mộc thô mà ấm áp. Gặp lại bạn lính, một chân để lại chiến trường, gia cảnh gieo neo, vợ bỏ đi biệt tăm, con ương ẩm bệnh tật, Minh vẫn nhận ra niềm hạnh phúc còn đọng trong những tai ương trần thế và làm thơ mượn lời bạn để nói cho mình:
Mình còn may mắn
Biết bao!
Nắm xương đồng đội nơi nào?
Vô phương
Mình chừ còn có quê hương
Còn đắng cay còn yêu thương mặn mà
Đi ra từ khói lửa chiến tranh, với chức phận người lính trận, Lê Ngọc Minh đã nghiệm trải những nỗi đau và nhận chân cái giá phải trả của sự sống.
Những tưởng chỉ chuyên chú cho văn xuôi và kịch bản phim truyện, đùng cái Lê Ngọc Minh ra một tập thơ với cái tên rất trẻ: Chơi oẳn tù tì toàn là lục bát. Mảng viết về cảnh vật và con người của làng, của quê thật hồn hậu và dễ thương. Hơn bốn mươi năm trước khi tuổi chớm đôi mươi, Lê Ngọc Minh đã vào đời và bắt đầu cuộc hành trình văn chương bằng sáng tác đầu tay Bắt đầu từ tháng giêng. Cảnh quê đã thấm vào hồn và ánh lên trong một tâm thế dịu nhẹ như ban mai mà nhựa sống rộn rực trong từng mắt lá:
Thiên nhiên thơm thảo quá chừng
Để cho đất cát tầng tầng tươi xanh…
Rồi cái mộng mơ khát khao trai trẻ cũng có nguồn ngọn từ người quê, dáng quê:
Bắt đầu
Anh đến tìm em
Đã yêu dáng cấy lúa chiêm trên đồng
Nói về quê, mỗi chúng ta luôn nghĩ đến mẹ. Với Lê Ngọc Minh, bóng mẹ không những thường trực trong tâm khảm mà còn trùm lên cả sáng tác. Mẹ ốm trong những ngày rét đại hàn, ở xa chưa kịp về thăm thì lòng con cọng cải muối dưa rầu rầu và ao ước hoang đường như cổ tích cái cảnh: sông chảy ngược dòng, sông chảy trên cầu, sông cứ ngừng trôi để thấy lại mẹ:
Liêu xiêu bóng vạc thân cò
Gánh rau mớ tép đôi bờ nắng nôi
Và ngày lễ ngày tuần, mẹ:
Đội nhang, đội quả lên đền
Cầu xin phúc phận, cầu xin yên bình
Mẹ ngược xuôi bươn bả, tảo tần khó nhọc và lành hiền như đang đâu đó trong nhiều miền quê gian khó. Tuy làm thơ không nhiều nhưng với hơn ngàn câu lục bát, Lê Ngọc Minh đã khá thành công, từ việc chọn cảnh vừa cô đọng vừa chấm phá và rặt màu quê kiểng để dựng nên hồn cốt quê làng: hoa mủ dẻ, lá tập tàng, sân đình hát bội, đêm ải xếp trăng... đến cách dùng thổ ngữ có sức gợi hoài niệm như: chừ, làm chi, ra vô; và, đặc biệt việc chọn từ khá đắt: năng nả (hai tay năng nả kiếm tìm), don dón (heo may don dón), líu lăng (ba tầng nón thượng gọi về líu lăng)... cho cảm giác sâu về thời gian cũng như không gian.
Mảng chính trong sáng tác của Lê Ngọc Minh là văn xuôi, nhiều nhiều trong số đó đã được chuyển thể thành kịch bản phim truyện nhựa, phim truyền hình. Ở phim hay truyện, Minh cho rằng mình hợp gu với những cảnh đời hay số phận đậm chất thôn làng. Thiên truyện ngắn Đi bầu thành hoàng đã dựng thành bộ phim cùng tên, có đoạn kể: “Trên chuyến xe từ quê ra Hà Nội, Quyền, bạn tôi nói “Quê với kiểng kiểu này thì con cũng đến vái các cụ”. Anh lái xe cất giọng trầm trầm “Còn có quê mà về đã quí”. Câu nói của anh xế khiến tôi linh cảm rằng, hình như anh thiếu một miền quê như chúng tôi. Xe chúng tôi đi về hướng Bắc. Gió mùa đợt mới đang về. Xe càng xa quê, gió càng thổi mạnh và tôi càng thấy lạnh”.
Trong sáng tác mới nhất của Lê Ngọc Minh như các truyện ngắn Thày giáo dạy sử, Thày lang, Trinh nữ, Đám cưới tháng bảy, Thày giáo dạy văn, Khoảnh khắc thánh minh… hình ảnh nhân vật có gốc gác từ làng quê khi lấp lánh phẩm chất trượng phu phóng khoáng, khi lẩm cẩm rán sành ra mỡ… là những nhân vật sinh động rất hương sắc Hoa Thanh Quế. Ngay như trong bộ phim truyền hình Đối thủ kỳ phùng 40 tập phát sóng trên VTV gần đây, tuy lấy bối cảnh thành phố và nhân vật là những người đã được đô thị hóa nhưng từ chủ tịch tỉnh Lê Khoái thành đạt và quyền uy đến người đẹp Linh Đa vận may và cơ nhỡ… vẫn không thoát được mối liên hệ dấu ấn với chốn quê chôn rau, cắt rốn.
Đầu năm 2016, làng tôi và làng Hòa Chúng của Lê Ngọc Minh được biên chế vào thị xã nghỉ mát Sầm Sơn nổi tiếng, trên đường đi biển, tôi chợt hỏi Minh về tiểu thuyết Động thổ. Minh bật mí, đã xong bản thảo với một cái kết có hậu nhưng tính cách nhân vật thì rất nữ kiệt đậm chất Hoa Thanh Quế. Đó là nhân vật Chung Hà. Bà Chung Hà bốn mươi hai tuổi, sau khi sinh con gái đầu lòng chợt nhận ra ông chồng thành đạt cỡ đại gia của mình rất bất hiếu với mẹ đẻ, với thày học, với vùng quê sinh hạ nên bà đã bí mật uống thuốc ngừa thai hơn hai chục năm để không phải sản sinh thêm thứ giống người bất nghĩa vô tình tuy bà bị mang tiếng là gái tịt, tuy chồng bà không ít lần dọa lên dọa xuống sẽ lập… vợ thứ, phòng nhì. Sau khi được làm bố vợ, ông chồng bà Chung Hà bỗng thay tính đổi nết cùng lúc làm luôn mấy việc nghĩa cử, tạ lỗi với mẫu thân và thày giáo dạy văn, người được cụ nội thờ làm nghĩa phụ cho ông ta, tài trợ công đức xây dựng một thư viện khang trang ngót tỷ đồng cho ngôi trường mới động thổ xây dựng ở quê. Cảm động tấc lòng của ông chồng đã biết sám hối, bà Chung Hà ngưng thuốc, bà có bầu. Đi siêu âm, thai nhi phát triển bình thường và là giống con trai. Đại hỉ!
4. Không phải đến thời @ mà trước đó khá lâu, toán học đã có cuộc xâm lăng hoành tráng vào địa hạt của giới văn chương. Người ta dùng lý thuyết xác suất thống kê để xây dựng đồ thị ngôn ngữ cho từng nhà văn, góp phần giúp các nhà nghiên cứu nhận dạng những tác phẩm khuyết danh và phân định tranh chấp tác quyền. Với 11 tập truyện ngắn, truyện vừa, truyện ký và một tập thơ đã xuất bản cùng hơn 10 bộ phim truyện nhựa và 250 tập kịch bản đã được dựng thành phim truyền hình thì đồ thị ngôn ngữ trong các tác phẩm của Lê Ngọc Minh sẽ là đường cong có nhiều điểm uốn và rành đậm chất quê.
Ngẫm nghiệm sự kiện xê dịch của Hòn Mái trong cụm di tích Hòn Trống Mái và cảm giác bất an trong tâm trạng của Lê Ngọc Minh cách đây hơn hai năm, thiết nghĩ việc tôn tạo nhằm níu giữ nguyên trạng hòn đá chỉ là chuyện nhỏ so với công nghệ bây giờ; rất có thể con người đa cảm này đã dự cảm một sự xê dịch khác lớn lao hơn. Phải chăng đó là dự cảm về tâm linh? Thế giới ngày càng phẳng, hiện tượng cấy văn hoá đang diễn ra một cách tự nhiên, sẽ gây xê dịch văn hoá bản địa, văn hoá truyền thống? Và, con người chứ không phải thế lực nào khác đã tác động dẫn tới bào mòn làm lung lay những giá trị được coi như bất biến vĩnh hằng? Cõi người, xưa và nay, chẳng thiếu gì những bất an của đời sống, của vạn vật quanh ta dẫn tới sự bất an của cõi lòng và ngược lại. Ngoại trừ, thời phong kiến lớp người làm nô bộc cho giới triều chính, môn đệ của thứ văn chương phải đạo cung đình hoặc thời nay lắm kẻ đi ngược với thế giới nhân sinh thì còn lại, tất thảy người có lương tri, tâm hồn họ luôn bị mặc định những xa xót về nhân thế. Biết nhận ra nỗi đau, biết khóc, biết cười và thiết tha hoài niệm cũng có thể giúp người ta trở nên có ích; và, Lê Ngọc Minh đang trần mình mỗi ban mai để làm một người như thế.
Tháng 10 - 2016


( Rút từ tập Dấu Thời Gian - NXB Hội Nhà Văn- 2016)





1 Hòn Trống Mái có nguy cơ bị rơi - Lê Hoàng - Báo điện tử Vnexpress, ngày 15/2/2014

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Nhà giáo Nguyễn Xuân Dương - Cây sống đời bền bỉ và thuần hậu




Nhà giáo Nguyễn Xuân Dương thời trẻ
(ký hoạ của hoạ sỹ Phạm Viết Song)

Đ
i Hà Nội lần này tôi kiếm được cuốn Con giai phố cổ (1)của Nguyễn Việt Hà. Thú nhất kiến giải của tác giả về bạn vong niên “Có một điều đại may mắn, thậm chí là ân sủng của Thượng Đế cho những đàn ông đang chập chững muốn lớn hoặc suýt soát trưởng thành, đấy là có được một người bạn vong niên. Bạn vong niên là bạn lệch tuổi, đương nhiên già hơn, và thường già hơn một Can (10 năm) hay một Chi (12 năm). Hầu hết những người bạn vong niên đó thường đọc thiên kinh vạn quyển, đều hút thuốc như cái tẩu, đều kiêu bạc nhàu nhĩ bất hạnh nhưng hóm hỉnh nhẹ nhàng hài hước”. Chiếu theo cách Nguyễn Việt Hà, anh Lê Ngọc Thạch, giáo viên dạy Lý cùng trường là bạn vong niên của tôi, có điều anh hơn tôi gần hai Can. Đôi lúc thấy tôi loay hoay vất vả mơ căn nhà mặt phố, anh đến mở nút thắt nhẹ như không. Chẳng hạn, anh khuyên lúc nào tới thăm thầy Nguyễn Xuân Dương, thông hiểu văn học Pháp bậc nhât xứ Thanh ta. Ý là anh muốn kéo tôi về với văn chương với đời sống bình dị, đời người kiếm tiền biết bao giờ cho đủ.
Chưa kịp tới thăm thì một hôm, anh Thạch cùng thầy Dương đến tôi tại gian nhà tập thể. Lúc ấy thầy đã ngoài 70, dáng khỏe khoắn, đôi mắt sáng và hiền. Thầy đặt cái mũ vải xuống cạnh bàn, rồi cầm tay tôi bằng đôi bàn tay mềm mại ấm áp. Chỉ đáng tuổi con cháu, cử chỉ Thầy làm tôi ái ngại y như các thầy dạy hồi nhỏ tại quê. Có lẽ, khuôn vàng thước ngọc đã lập trình cùng những khúc riêng tư đầy ám ảnh cho ra một tâm thế giữ dành, khuôn mẫu là vậy. Thì ra thầy Dương muốn nhờ tôi dạy thêm môn Hóa cho Thủy, cháu ngoại. Chỉ có một việc nhỏ như vậy mà thầy cất công đến tận nhà. Cũng từ lần gặp đó, tôi được biết, sau khi đậu tú tài phần thứ nhất, thầy học trường Anbe Xaro, do quen biết vài tuần sau chuyển sang học trường Bưởi và đậu tú tài triết học tại đây. Năm 1945, thầy được điều động về dạy văn học tại trường Collège Đào Duy Từ, được ít lâu chuyển sang ngành tư pháp, làm Chánh văn phòng tòa Thượng thẩm Trung Bộ. Từ 1950 lại chuyển về giáo dục, gắn bó với các trường cấp 2 Hoằng Hóa, Hậu Lộc hơn 30 năm.
Mùa đông Qúi Tỵ đến sớm trong tiết trời se lạnh vào buổi sáng, tôi tới thăm thầy Nguyễn Xuân Dương tại 66 - Trần Cao Vân - TP Thanh Hoá. Thầy sống cùng gia đình con trai cả, bác sỹ Nguyễn Xuân Uyên. Hôm đó, con trai thứ Phó Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Xuân Tế cũng từ Sài Gòn về thăm thầy cô. Tôi được thầy tiếp tại phòng riêng ở gác 2. Một gian phòng nhỏ đầy sách có chiếc radio cũ đặt cạnh tivi màu, màn hình nhỏ nhưng khá nét. Hai tấm bằng Huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được đặt trong tủ kính. Phía trên có ảnh của các cụ thân sinh thầy: cụ bà Trần Thị Tiệp, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; cụ ông Nguyễn Xuân Lâm, người làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa. Cũng từ đây, tôi được biết Cụ thân sinh của thầy làm Tri huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Thấy tôi tần ngần trước nét dịu dàng quý phái của người con gái quê trong bức ảnh đen trắng đã ố vàng, thầy vào gian trong mời cô ra và giới thiệu: “Bà ơi! Đây là ông giáo dạy cháu Thủy nhà ta ngày trước”. Thầy nói nhẹ rồi hướng ánh mắt về phía bức ảnh: “Nhà tôi hồi còn trẻ. Thời ấy, con gái không được học xa nhà, chỉ học xong yếu lược là được rồi”.
Gặp cô lần đầu, nhưng trước đây, anh Lê Ngọc Thạch đã kể cho tôi nghe về vợ thầy, cô Nguyễn Thị Cầu, cũng thuộc dòng dõi khoa bảng / quan lại. Ông nội là cụ Cử Nguyễn Liên người làng Nga Lộ, xã Nga Mỹ, huyện Nga Sơn từng làm Tri phủ Anh Sơn, Nghệ An, còn cụ Cử Trần Thương Liễn lại là cậu ruột, làm bố chánh tỉnh Bình Định, sau khởi nghĩa làm Chủ tịch xã Nga Bạch rồi Chủ tịch huyện Nga Sơn. Hai làng Nguyệt Viên và Nga Lộ cách nhau không mấy đoạn đường. Chỗ thân thuộc qua lại cũng chỉ trong ngày. Tôi cứ tưởng tượng, một buổi mai nắng nhẹ, chuyện trăm năm cháu con lại được các ông Cử, ông Nghè dòng họ Nguyễn hai làng ước định trong lúc thưởng trà hay bình phú vịnh thơ. Sự sắp đặt của ông cha, âu cũng là nhân duyên tiền định cho thầy cô sống hòa hợp bên nhau hơn bảy mươi năm.
Tôi sực nhớ có lần anh Lê Ngọc Thạch nói, bố anh dạy tiểu học được trả lương kèm theo phụ cấp cho vợ con. Thầy Nguyễn Xuân Dương dạy trung học lương cao hơn nhiều, suy từ lương giáo viên tiểu học thì lương thầy khi mới về dạy trung học: 180đ /tháng; phụ cấp cho vợ: 40đ; phụ cấp cho con: 28đ; tổng: 248đ. Tôi xin thầy được biết như thế liệu có đúng không, Thầy dè dặt hỏi: “Sao ông hỏi kỹ càng thế?”. Tôi vội nói: “Em xin thầy làm tư liệu cho bài viết về giáo dục, đây là tư liệu quý”. Có lẽ câu chuyện của tôi đã vô tình chạm đến ám ảnh nào đó. Thầy rót chén trà nóng rồi chuyền cho tôi bằng cả hai tay. Vội đỡ lấy, tôi đặt trong lòng bàn tay như không muốn mất đi cảm giác của cử chỉ ngày càng hiếm gặp trong thời hiện đại. Đợi cho không khí trở nên lắng đọng, tôi mạnh dạn hỏi thêm: “Thưa thầy, trong Cuốn Collège de Thanh Hóa - Đào Duy Từ - Lam Sơn 80 năm 23 nhân vật nổi tiếng, nhà nghiên cứu văn học Lưu Đức Hạnh viết rằng nhà thơ Hữu Loan từng làm Tổng biên tập các tập Giai phẩm và sau đó giải nghệ về quê làm vườn, cày ruộng, thồ đá. Vừa là bạn là đồng hương, em nghĩ thầy có nhiều kỉ niệm với nhà thơ tài danh nhưng đời lại nhiều phân khúc này?”. Thầy lặng lẽ giây lát rồi bồi hồi tâm sự, Hữu Loan cùng tôi thi đậu tú tài phần thứ nhất một khóa với Nguyễn Đình Thi, Trần Văn Xuân. Nghe nói sau này Hữu Loan có viết báo Nhân văn. Tôi không có dịp gần gũi, nhưng một lần (khoảng 1953) được nghe ông Trương Tửu (sau này nghe đâu là người của nhóm Nhân văn - Giai phẩm) nói chuyện văn chương tại trường Lam Sơn. Tôi cùng mấy người bạn được mời dự. Lúc chúng tôi đến thì học sinh các lớp đã tập trung đông đủ ở sân trường. Một lúc sau ông Trương Tửu mới đến. Ông Đoàn Nồng, hiệu trưởng nhà trường, giới thiệu nhà văn Trương Tửu và hỏi các học sinh: “Các em thích nhà văn Trương Tửu nói chuyện gì nào? Văn học dân gian, tiền chiến hay Truyện Kiều?”. Tất thảy các em đồng thanh: “Thưa thầy, Truyện Kiều ạ!”. Ông Trương Tửu mắc cái can cầm ở tay vào góc bàn rồi vui vẻ: “Tốt quá! Tôi cũng muốn vậy, thế ta bắt đầu nhé”. Ông dẫn dắt vấn đề từ Thanh Tâm Tài Nhân đến Nguyễn Du, tài sắc và số mệnh. Cũng có thể cảm giác lần đầu trực tiếp nghe Trương Tửu nói chuyện nên đoạn mở của ông thật ấn tượng, ông nói liền mạch không sách vở, đại ý là: Trong giới trí thức nước ta, không có một tác phẩm văn chương nào làm bận rộn dư luận một cách phiền phức bằng cuốn Truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du, hơn 150 năm qua, hết lớp nhà nho quý tộc này đến lớp nhà nho lạc ngũ khác, hết loạt học giả tư sản nọ đến loạt văn nhân trung lưu kia, kẻ trước người sau, kẻ xướng người họa, kẻ đánh người đỡ, thi nhau, đua nhau, hùa nhau bàn luận về Kiều, hát tuồng Kiều, chiếu phim Kiều, giải thích Kiều, kỷ niệm Kiều, bày ra một cảnh tượng văn chương rất huyên náo, mới thoạt nhìn tưởng đơn thuần chỉ có tính cách thẩm mỹ, nhưng xét kỹ thì thấy chứa đựng nhiều tính cách tâm lý và xã hội sâu xa, phức tạp.
Kể đến đây thầy dừng lại chốc lát, rồi giọng như lắng lại: “Tài nói năng của ông ấy rất ít người bì kịp”. Như chợt nhớ ra điều gì, vẻ như hệ trọng lắm, thầy đi về phía giá sách lấy tờ Nghệ Thuật Mới, số: 13 - 14/2013 đặt vào tay tôi và nói: “Tài năng ông Trương Tửu đã rõ, nhưng với tôi thông minh kiệt xuất phải là ông này”. Lật vội trang báo, thầy chỉ vào tít Tiếp xúc văn hóa Việt Nam và Pháp ở trang 6, phía dưới của dòng chữ: Giáo sư Phan Ngọc.
- Thưa thầy, em có đọc bài viết này và cả cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam của Giáo sư Phan Ngọc do anh Vũ Ngọc Khôi (con trai cố giáo sư Vũ Ngọc Khánh) cho mượn. Chắc thầy gần gũi với Giáo sư Phan Ngọc?
- Chúng tôi quý nhau lắm! Vì quen nhau cũng đã từ lâu, cụ Thượng thư Phan Võ, thân sinh ông Phan Ngọc là bạn của ông chú tôi, cụ Thượng thư Nguyễn Xuân Đàm, hai cụ cùng dự khoa thi Hội năm Canh Tuất Duy Tân thứ tư (1910), và lúc vào điện thí cả hai cụ cùng đỗ Phó bảng. Sau khi ra làm quan, hai cụ vẫn có liên hệ chặt chẽ với nhau, nên về sau ông Phan Ngọc và tôi thân nhau cũng là chuyện thường tình. Ông Phan Ngọc, tác giả của nhiều công trình văn hóa, văn nghệ và là dịch giả nổi danh thông thạo tám ngoại ngữ.
Vui chuyện thầy kể lại, tôi tới thăm gia đình ông Phan Ngọc cách đây có lẽ gần hai chục năm tại Hà Nội. Hai ông bà có mời tôi ở lại dùng cơm. Lúc chia tay, bà Phan Ngọc nói vui: “Nếu trong xử thế, anh Ngọc được mềm mỏng như bác thì có lẽ anh ấy ít gặp phiền phức hơn nhiều.” Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao cô lại nói vậy? Tôi gần suốt một đời chỉ cần mẫn chăm sóc lớp học trò nhỏ tuổi nơi thôn dã, anh Ngọc là học giả có tên tuổi, thầy của các thầy bây giờ, đi đây đi đó được nhiều người trọng nể…” Ông Phan Ngọc vội ngắt lời tôi: “Nhà tôi nói vui đấy anh ạ! Có đôi chút phiền phức thời Nhân văn - Giai phẩm, nhưng đã qua rồi. Chúng ta sở dĩ còn được như thế này phần lớn nhờ ở nghĩa nặng gia đình và thâm tình bè bạn”. Thầy cầm tay tôi lặng đi, ánh mắt hướng ra thật xa phía bên ngoài cửa sổ như để tìm lại dấu xưa, rồi chậm rãi: “Tết rồi, bà Phan Ngọc điện thoại chúc tết gia đình tôi, có nói Giáo sư trí tuệ còn minh mẫn nhưng đi lại giao tiếp khó khăn. Tôi và ông Phan Ngọc chắc không còn cơ hội gặp nhau”.
Đi Hà Nội nhân dịp Quốc khánh năm 2014, tôi tới thăm Giáo sư Phan Ngọc, chuyền lá thư và gói trà quí của thầy Dương cho người bạn già của mình tại căn hộ số 06 tầng 10 khu đô thị Ecompark (Văn Giang - Hưng Yên, cách trung tâm Hà Nội chừng hơn nửa giờ xe chạy). Căn hộ rộng gần 100m2, ba phòng ngủ, cửa kính khá rộng có thể nhìn thấy những hàng cọ, bờ tre cạnh lối đi đầy cỏ. Quê làng như ngay bên cạnh Giáo sư. Ông bà Phan Ngọc nghe nói tôi mang thư của thầy Dương từ Thanh Hoá ra thăm vui lắm. Chia tay, ông bà tặng thầy Dương và tôi mỗi người một cuốn sách “Nền văn hoá mới của Việt Nam” do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin / 2013 ấn hành. Bà thay ông viết lời tặng rồi ân cần: “Chúng tôi chỉ có sách làm quà. Mong anh giáo chuyển lời chúc trường thọ của chúng tôi tới vợ chồng bác Nguyễn Xuân Dương”.
Mỗi khi nghĩ về hạnh phúc đời người thì hình ảnh hai cặp vợ chồng Giáo sư Phan Ngọc và nhà giáo Nguyễn Xuân Dương lại sống động trong tâm trí tôi.
Thật may cũng lần đi Hà Nội đó, tôi được người bạn tặng cuốn Lần giở trước đèn(2) của thầy Nguyễn Xuân Dương. Lặng lẽ trước từng con chữ của gần 300 trang sách với nhiều vấn đề tư tưởng, thơ ca, văn hóa và đẫm đầy nghĩ suy nhân thế. Từ những luận bàn về các danh nhân trong lịch sử nước nhà có nguồn gốc xứ Thanh: Minh Mạng, vị vua thông minh hiếu học, cá tính mạnh mẽ; thi sỹ - nhà vua Lê Thánh Tông, ý thức trách nhiệm lớn lao của bậc đế vương cùng tấm lòng nhân ái đối với mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ; những vần thơ về cảnh sắc đất nước đẹp như gấm hoa của chúa Trịnh Sâm; người học trò nghèo Đào Duy Từ chí lớn, giúp chúa Nguyễn trong việc nội trị ngoại giao, phòng thủ đất nước đến chuyện ngày tết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu ở Thái Lan và Nhật Bản. Những việc tưởng như bé nhỏ: Tản mạn quanh chén trà, Lễ hội đền Lê, chuyện ngày xuân với từng con vật trong 12 con giáp... được đặt cạnh các vấn đề tư tưởng - triết học to lớn, phức tạp như Khổng giáo, Phật giáo trong hai bài viếtĐại quan về nội dung học thuyết của Khổng Tử”, “Đôi nét về nguồn gốc và giáo lý đạo Phật. Thầy kể, thi vấn đáp triết học lúc học ở trường Bưởi, nhiều bạn hướng vào đề tài gắn với triết gia lừng danh: Nietzche, Henri Bergson…, thầy chọn Phật giáo, Khổng giáo và sau đó tiếp tục nghiên cứu chúng qua Đức Phật của học giả Oldenberg người Đức, được dịch sang tiếng Pháp, Quan điểm của tôi về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni của học giả người Nhật qua bản dịch tiếng Việt….Rõ ràng, những vấn đề thâm hậu, phức tạp của triết học Phương Đông, với nền tảng Hán học theo cách nhìn Tây học đã giúp tác giả kiến giải một cách tường minh cũng là lẽ đương nhiên.
Ngoài Lần giở trước đèn, nhà giáo Nguyễn Xuân Dương đã hoàn thành 13 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: khảo cứu, ký sự, biên soạn, dịch thuật. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến: Bí mật thành Pari của Eugène Sue (4 tập - dịch chung), Tỉnh Thanh Hóa của giáo sư Charles Robequain (dịch chung), cả 2 quyển được dịch từ nguyên bản tiếng Pháp, Những tác giả tiêu biểu của nền văn học Pháp thế kỷ 18 - 19, Những truyện cổ tích nổi tiếng thế giới (tác phẩm biên soạn). Gặp thầy, tôi mạnh dạn hỏi thêm:
- Thưa thầy, lấy tên Lần giở trước đèn cho tập sách, có phải thầy tâm đắc với câu thơ Cảo thơm lần giở trước đèn của Nguyễn Du không ạ?
- Vâng! Đúng thế, cũng như mọi người dân Việt, tôi yêu thích Truyện Kiều và kính trọng thi hào bậc nhất nước Nam ta. Tên tập sách còn gợi nhớ kỷ niệm một thời của tôi.
Như có tiếng vọng từ thẳm sâu kí ức, thầy kể giọng trầm hẳn xuống, đầu những năm 50 thế kỷ trước, thầy chuyển về ngành giáo dục làm Hiệu trưởng Trường cấp 2 Hoằng Hóa (cả huyện khi đó chỉ có một trường cấp 2), gia đình sống ở làng Dư Khánh (xã Hoằng Đạo) cách quê làng Nguyệt Viên chừng tám cây số, còn trường thì đặt ở Bút Sơn. Dân làng cho đất, giúp làm nhà. Về sau khi cán bộ, giáo viên dùng chế độ tem phiếu lương thực, vợ con thầy cũng được nhà nước cho hưởng theo quy định. Có lần, phụ huynh lấy lương thực hộ, họ đã thay ngô sắn bằng gạo. Lớp học thời ấy vào ban đêm. Học sinh đi học mang theo tấm ván làm mặt bàn, kèm theo các thanh gỗ ghép thành ba chân để có thể gấp lại cho gọn, cái đèn thắp sáng bằng dầu hỏa, bóng đèn bằng vỏ chai đã cắt đáy, gọi là đèn chai. Ngoài công việc hiệu trưởng, mỗi tuần thầy dành ba tiết dạy văn cho học sinh cuối cấp. Những bài giảng về Truyện Kiều có sức vang động đến học sinh và người dân trong vùng. Công đoàn trường có bận muốn chuyển giờ giảng Kiều của thầy sang buổi khác để khỏi phân tâm bà con khi hội họp. Lúc ấy, cuộc chống Pháp đang vào hồi quyết liệt, tâm sức mọi người phải dành cho kháng chiến. Thầy Dương, con gia đình quan lại, việc giảng dạy càng phải giữ gìn, thận trọng. Bài giảng Kiều dưới ánh đèn chai và Lần giở trước đèn tên tập sách có được sự tương tác là vậy.
Giáo sư, nhà giáo nhân dân Đinh Xuân Lâm, người bạn thời Colège Thanh Hóa trong lời giới thiệu tập sách Lần giở trước đèn có đoạn viết: “Khi tôi vào học năm thứ nhất (1937) thì anh Dương đã học năm thứ 2, tuy cách nhau chỉ một lớp nhưng anh đã chững chạc lắm rồi, đầu tóc dưỡng rẽ luôn ngay ngắn, chân đi guốc, áo dài theo mùa, khi vải cát bá trắng, lúc lại vải the lương”. Bây giờ, thầy Dương đang ở tuổi 94, thanh cao dáng hạc trong bộ pidama màu trắng kẻ sọc xanh dịu, giọng nói cùng bước đi thật nhẹ. Đón hoặc tiễn khách đến thăm, thầy ra tận cửa cầm tay. Nét lễ nghi của đạo học dường như không chịu vơi đi.
Mỗi khi nghĩ về thầy, về nhiều trí thức cùng thời có trí tuệ mẫn tiệp, cuộc sống lặng lẽ bình dị nơi thôn dã, tôi lại liên tưởng tới cây sống đời, loài cây quý lá tươi xanh, sắc hoa đỏ mặn mà trên vùng đất đá khô cằn, nơi góc vườn chật chội hay căn phòng bé nhỏ. Cây sống đời không những gợi cho ta vẻ đẹp thuần hậu bền bỉ về PHÚC LỘC TRƯỜNG THỌ mà còn làm dược liệu quý cho người quê nghèo xa các trung tâm y tế. Đẹp và Quý là hai từ ta nghĩ về CÂY SỐNG ĐỜI.
Tháng 10 - 2014


(Rút từ tập DẤU THỜI GIAN-nxb Hội Nhà Văn-2016)




(1)Con giai phố cổ - Nguyễn Việt Hà - NXB Trẻ - 2014
(2) Lần giở trước đèn - Nguyễn Xuân Dương - NXB Thông tin và Truyền thông - 2011

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016

CHẤT QUÊ

       
                                                                          Nhà Giáo Nhân Dân Phạm Ngọc Quang
                                                                         Nguyên hiệu trưởng THPT Chuyên Lam Sơn
    Sau hôm Nhà giáo nhân dân Phạm Ngọc Quang đi Mỹ về, tôi đến phòng hiệu trưởng thì anh có giờ lên lớp. Trên bàn làm việc đặt tấm ảnh cỡ lớn, trong đó anh ngồi bên cánh đồng hoa cùng học trò vừa đoạt giải nhì toán quốc tế. Có lẽ đây là cánh đồng ngoại thành, thầy tựa lưng vào thân cây to, tán lá xoè rộng, hai chân duỗi, trò lăn trên thảm cỏ, cảnh tượng như người quê lúc được mùa trông thật vui. Mà không vui sao được, khi đây là học sinh thứ năm của anh đoạt giải toán quốc tế, nghiệp bảng đen phấn trắng thật có hậu. Anh Quang quê Cẩm Vân, Cẩm Thủy - một vùng đất lúa, bên kia núi Mầu, phía này chợ Bãi, tháng ba hoa gạo đỏ rực lối đi dọc triền đê. Ấy vậy mà anh lại là người lạnh tính, đôi mắt sáng, dáng cao đi như chạy, thân trên nhao về phía trước. Nhìn kỹ tấm ảnh lần nữa, tôi tìm tờ giấy gấp đôi theo chiều dọc đặt cạnh và viết vào đó dòng chữ khá đậm “Sau vụ cày cuốc, anh nông dân Phạm Ngọc Quang nghỉ ngơi bên cánh đồng nước Mỹ”. Thật lạ, lời đề tựa của tôi không gây nên phản ứng gì. Cũng có thể ai đó đã nhanh tay gỡ mảnh giấy đi, còn chữ tôi thì anh chẳng lạ gì. Một hôm, tại hành lang lớp học, anh cười bảo: Cứ ranh mãnh như chú chẳng ai ưa cả đâu!
Rồi anh kéo tôi về phòng, lấy chai rượu tây đã vơi gần nửa, anh trao ly rượu và nói chậm rãi: “Sa vào sách vở rồi công việc, mụ hết cả người, tới nước ngoài cứ như từ trong rừng ra. Vào phòng tắm trong khách sạn, đủ loại sữa tắm, dầu gội, xà phòng, kem dưỡng da, mỗi loại vài thứ, có đến mươi lăm lọ to nhỏ, cái đặt ngang, thứ úp ngược. Chẳng có nhiều thì giờ để băn khoăn tìm hiểu, thôi thì mỗi thứ lấy một tí bôi vào người kì cọ rồi dội nước cho xong ”. Anh như Hai Lúa lúng túng trong sung sướng giữa lúc trúng mùa bội thu.
Nghỉ hưu, anh chọn Hà Nội. Hôm anh sắp chuyển ra hẳn, tôi và Lê Văn Hoành, cũng là thợ cày cuốc (biệt hiệu tự phong của giáo viên luyện thi - chỉ công việc khó nhọc như dân quê) mời anh tới quán ăn gần nhà. Đủ thứ đồ rừng đồ biển thì anh lại chọn món lạc rang nhấm nháp, nói là để chờ món khoai sọ hầm xương, cá chuối kho, canh cua cà và …cơm. Tự chọn món, anh ăn ngon và khỏe như người dân quê sau buổi làm đồng.
Lần nào đi Hà Nội tôi cũng nhắn tin hay điện thoại hẹn gặp thì anh lại khất sang trưa hoặc cuối giờ chiều. Thì giờ của anh đến lúc hưu vẫn còn bị chia cắt theo từng ô khoảnh như ruộng dưới quê: trao đổi công việc với báo Toán, dạy online trên truyền hình, luyện thi đại học. Học toán với thầy Quang, học sinh cần có sức khỏe và sức chịu đựng khối lượng kiến thức tấp vào đầu, ghi nhiều, nhớ nhiều, chưa hiểu thì tự nghiền ngẫm để hiểu. Thi giỏi toán quốc gia cuối tháng giêng, học sinh đội tuyển sẽ nghỉ tết vào chiều hai chín và tập trung học lại ngay sáng mùng hai tết. Anh nói, ngày xuân ít việc, kiến thức dễ thấm vào trí não.
Lâu lắm tôi mới có nhiều thì giờ bên anh. Đấy là lần kỷ niệm lúc ra trường khóa 90/94 của học sinh trường chuyên Lam Sơn-Thanh Hoá. Xe đi từ Hà Nội lúc quá trưa. Anh phải đảo giờ dạy cho kịp chiều về tắm biển Linh Trường, bãi biển khá đẹp, cách Sầm Sơn qua con sông Mã. Chuyện đủ thứ: thời cuộc, văn thơ, cái may và không may thời kinh tế mở cửa. Tôi bảo cả đời may mắn được dạy học sinh giỏi. Anh cười: “Như thế lại là thiệt thòi, mỗi đối tượng có cái thú của nó” rồi anh rủ rỉ tâm sự: Thời còn trong quân ngũ bổ túc hình học không gian cho anh em cùng đơn vị tại chiến trường Quảng Trị, họ ham học nên mệt vẫn phải cố, rồi vỡ lòng phép cộng trừ cho mấy chị cấp dưỡng nhà bếp. Sinh viên thời chiến tranh sơ tán ăn cơm chung tại nhà bếp. Đến giờ ăn, mọi người xếp hàng mang theo bát tô, đĩa sành để lấy suất ăn. Sinh viên Phạm Ngọc Quang thường được các chị cấp dưỡng cho lấy trước, có khi còn đắp thêm miếng cháy vàng rộm ngang tô cơm. Bạn bè thấy vậy tếu táo: “Thầy của người ta lại biểu!”. Anh Quang học đại học trước tôi hai năm. Thời ấy đói lắm! Cái đói theo vào giờ học, lan trong giấc ngủ. Khoai sắn, ngô hạt, mỳ luộc, muối vừng choán gần hết đời sinh viên. Đói, cái đói, sự đói… còn ám ảnh chúng tôi một thời gian dài dài nữa.
Biển Linh Trường hôm đó sóng to. Bãi tắm không vướng bùn lại rất thoải. Anh Quang hơn hẳn tôi cái khoản bơi lội. Hồi trẻ, anh thường qua sông Mã mùa nước cạn, lúc bơi về may nhờ bãi ngô ở triền sông như những nữ thần làng nên không bị lạc. Tôi và anh hò nhau ngụp lặn đến sẩm tối như để cảm hết cái bé nhỏ giữa cái vô cùng của hoàng hôn đỏ rực trên từng ngọn sóng. Sở dĩ  mãi giữ được tình huynh đệ của hai anh giáo, một phần do chúng tôi đều xuất phát từ làng và hoàn toàn dị ứng với kiểu ta đây phố thị.
Lời “chọc quê” của tôi dưới bức ảnh sau chuyến đi Mỹ không làm anh Phạm Ngọc Quang tí chút bận lòng. Sự ham công tiếc việc bước đi như chạy và tính tình điềm đạm cho anh sự an nhiên trước mọi vấn đề. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có lời đề từ trong thiên truyện ngắn Bài học nông thôn: “Tôi sinh ở nông thôn, mẹ tôi là nông dân”; thiển nghĩ, lời này là sự khẳng định, bỡn cợt, chế giễu hoặc gửi gắm thì chắc không phải dành cho những người có phận nhà giáo/nhà quê như anh Phạm Ngọc Quang. Anh như giọt nước trong dòng sông lớn, có thể là giọt nước sông Mã, con sông quê đã vùng vẫy gầm thét thoát được sự vây bọc của trùng điệp núi rừng đèo dốc vùng Tây Bắc rồi cuối cùng thì lắng đọng cho đôi bờ ngào ngạt cây trái.

 (Rút từ tập DẤU THỜI GIAN-nxb hội nhà văn-2016)                                                                                

CÂU CHUYỆN BUỒM NHỎ


                                    
                                            Nhà thơ Anh Chi



(Bản tái bản lần thứ 5)
       Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội


                                                        


1.   Buổi đầu ở với chị Hoàn


Bà nội trao tôi cho chị Hoàn. Trước đây, tôi ở với bà, bây giờ tôi sẽ ở với chị. Vì đã quen ở với bà rồi, nên đến ở với chị tôi thấy không thích lắm. Tôi còn thấy khó chịu trong những phút đầu làm quen với chị. Nhận tôi từ tay bà nội, chị kéo vạt áo ra, đặt tôi vào đấy. Cái vạt áo bùng nhùng, chị Hoàn thì vuốt ve tôi quá nhiều. Tuy còn bé, tôi thừa biết người ta chỉ cưng nựng những gì quá yếu đuối thôi. Tôi cố ý trườn tránh những cái vuốt ve, đến nỗi suýt bị rơi xuống đất. Chị Hoàn lập tức gói luôn tôi vào vạt áo. Tôi bực không thể chịu được.
May cho tôi, việc bị gói trong vạt áo cũng không lâu la gì. Chào bà xong, chị Hoàn chạy vào trong nhà, đặt tôi lên bàn. Thoát khỏi cái vạt áo, tôi đứng, thấy khoan khoái hơn. Bên cạnh tôi có những quyển vở, quyển sách với những hình vẽ đẹp ở ngoài bìa, tôi nguôi bực ngay. Chị Hoàn ngắm nghía tôi và khen tôi xinh đẹp. Rồi chị còn kéo một quyển sách dày cộp, đặt trước mặt tôi:
- Truyện cổ An - đéc - xen đấy, hay lắm!
Tôi không biết đọc, chỉ đặt tay lên quyển sách. Chị Hoàn cười và liến thoắng kể một đoạn truyện chị đã đọc trong quyển sách ấy. Lúc đó tôi còn chưa biết gì. Tôi đưa miệng gặm gặm gáy sách. Lập tức, chị Hoàn nhấc tôi ra xa quyển sách:
- Miu! Không được thế.
Tôi nhìn chị, biết chị nói vậy nhưng không có vẻ giận dỗi. Chị còn tưởng tôi buồn, nên lại vỗ về tôi. Chị giải thích cho tôi về việc không được làm hỏng sách vở và về nhiều điều khác mà buổi đầu đến ở với chị tôi còn không để ý lắm.

                                                 *
                                              *     *

Ở với chị Hoàn, dần dần tôi hiểu thêm nhiều điều. Ông nội chị Hoàn nói rằng ngày xưa sống khổ quá, đến đời chị, thấy như cuộc sống được bù lại. Hoàn có nghĩa như thế đấy. Mỗi khi có khách đến nhà, ông hay chỉ cho khách thấy những giấy khen chị được tặng trong những dịp tổng kết năm học, và lại nhắc chuyện chị được đặt tên là Hoàn có ý nghĩa như thế nào.
Chung quanh tôi là vách nhà, có cửa sổ cho gió mát lùa vào những ngày nắng nóng, có cửa đi ra sân. Bên ngoài sân là khoảng vườn trồng rau giền, rau đay và rau mùng tơi, đi len lỏi giữa các luống rau thật dễ chịu. Qua hết vườn là tới hàng phi lao gió cứ ù ù thổi qua suốt ngày đêm. Bên ngoài hàng phi lao là bãi cát rộng, rộng tít ra tận biển. Biển thì rộng như chỉ có bờ bên này không có bờ bên kia. Tôi rất yêu thích bãi cát. Ở đó có những cây phi lao, lúc hứng lên tôi có thể trèo lên những cành cây, gió như đưa võng. Thường thì tôi luôn chạy vòng vèo qua những cây phi lao bé, cành lá rậm rì, và nhiều khi cứ muốn chồm vào chúng nó. Những cái cây ấy, như những mái tóc bù xù ẩn náu một điều gì mới lạ trong đó chăng? Tính tôi hay tò mò, có lúc đã nhảy chồm lên cái đầu bù xù của cây, bị những chùm lá nhòn nhọn dụi cả vào mặt. Nhiều khi chị Hoàn phải đi tìm tôi. Đôi lúc chị hớt hải gọi váng lên:
- Miu! Miu!...
Tôi vẫn còn nhảy chồm vào một cây phi lao rối tung, thấy một cái gì kêu “vù”, vút qua bên tai.
- Miu!
Tôi đang ngơ ngác thì đã bị đôi bàn tay quen thuộc của chị Hoàn tóm lấy.
- Chim sâu đấy.
- …
- Nó đi bắt sâu đấy mà!
Tôi lại bị đặt vào vạt áo để vào nhà. Tôi không thích đi kiểu ngồi trên vạt áo tí nào cả. Nhưng nếu cựa quậy một chút, sẽ bị gói lại luôn.
Chị Hoàn đặt tôi lên bàn ăn cơm, rôi bảo:
- Miu, ăn cơm đi.
“Nó bay vù lên, ghê thật” – Tôi vẫn còn nghĩ về con chim sâu.
- Này, ăn đi, cá đây thôi.
Tôi vẫn còn muốn ngoái đầu nhìn ra bãi cát, những cây phi lao, gió thổi.
- Miu còn muốn tập dượt nữa cơ à?
“Tập dượt. Chả biết con chim sâu nó thế nào?”
- Thôi, ăn đã, rồi mai phải có kế hoạch cho Miu tập dượt, nhé.
Cũng phải ăn thật, cá rất ngon.






2.   Tập dượt - Điều quan trọng    


Quả thực, tập dượt thích hơn xem con chim sâu nhiều. Hàng ngày chị Hoàn đều đặn đưa tôi ra bãi biển. Chị cũng thích bãi biển như tôi.
Cát bay mù lên dưới gót chân chúng tôi. Chị Hoàn cười như nắc nẻ khi tôi làm sai một động tác gì đó, như vồ trượt một chiếc lá cây chị ném cho tôi chẳng hạn. Chị cười, làm tôi thấy phải cố gắng hơn. Chỉ tiếc rằng tôi không thể nào khiến chị ấy hiểu là tôi không thích nằm trên vạt áo để đi về nhà sau mỗi buổi tập.
Có một lần, tôi đã gặp lại con chim sâu. Tôi vừa lao vào một bụi cây, nó bay vù lên.
- Chim sâu đấy. Miu làm nó sợ rồi.
“Sao nó lại sợ mình?”. Tôi muốn lao lên theo, nhưng chỉ nhảy lên được một cành cây gần đó. Cành cây tôi nhảy lên cao ngang tầm vai chị Hoàn. Tôi vẫn nhìn theo hướng con chim sâu vừa bay đi, quên cả cành cây đang đu đưa rất mạnh.
- Khá quá! Nào, nhảy lên cành trên nữa đi.
Nhảy lên cành trên, khó gì. Phóc một cái, tôi nhảy lên.
- Hay lắm. Miu tiến bộ lắm!
“Chim sâu nó bay đi rồi. Sao nó lại sợ mình nhỉ?”
- Này, này, nhìn đi đâu đấy? Tập nữa đi chứ.Vờn quả cầu nhé.
Chị hoàn nói thế, rối bắt tôi tranh nhau với chị một gói giấy màu xanh, đỏ. Gói giấy mà chị chị gọi là quả cầu bị buộc vào một đầu dây, đầu dây kia chị cầm lấy, để mỗi khi tôi lao vào tóm quả cầu thì chị giật phắt đi. Tôi bực, quên ngay chuyện con chim sâu, liên tiếp chồm vào quả cầu xanh, đỏ. Cát bay mù mịt, tôi càng quyết chí, cũng bị vồ trượt đến mười mấy lần. Có lần tôi mất đà, ngã lăn lông lốc. Chị Hoàn nhìn tôi với vẻ xót thương. Vụt một cái, tôi đã bắt được quả cầu bằng cả hai tay và miệng. Tôi ngoạm chặt quả cầu, chạy tuốt đi luôn. Chị Hoàn cười rất vui, cứ như chị là người chiến thắng chứ không phải tôi. Tôi chạy xa thêm. Chị Hoàn cười vang, đuổi theo. Tôi thích quá, chạy liền một mạch về nhà, nhảy tót ngay lên bàn, coi như để tỏ cho chị biết rằng tôi không cần đi bằng vạt áo của chị ấy nữa. Chị Hoàn chăm chắm nhìn tôi, nghiêm trang nói:
- Đã đến lúc Miu phải làm việc quan trọng hơn.
- …?
- Phải bắt được chuột.
Bọn chuột thì tối nào tôi cũng đã làm cho chúng phát khiếp lên đấy thôi. Cứ hễ nghe tiếng tôi là chúng nó đã lút chút rủ nhau bỏ chạy. Tưởng việc gì, việc ấy thì tôi làm thừa sức.
- Bắt được chuột, Miu nhé, như thế mới tỏ ra đã cứng cáp chứ.
Bây giờ có thằng chuột nào chạy ra là tôi sẽ chứng minh cho chị Hoàn biết tôi đã cứng cáp cho coi.
- Thế nào, làm được chứ?
Bực quá. Chả thấy thằng chuột nào. Sao chúng nó trốn đi đâu hết thế.
- Thế nhé! Phải bắt được chuột đấy!
                                      
                                                 *
                                              *     *

Đối với tôi, việc bắt chuột chỉ là việc bình thường. Cũng như chị Hoàn quét nhà, nấu cơm, rửa bát đũa và đi học. Mọi người đi kiếm cá, trồng khoai. Tôi thì đuổi bắt lũ chuột. Dù còn bé, tôi đã cảm thấy phải như vậy.
Có điều, đây là lời thách thức của chị Hoàn. Bởi thế, suốt cả tuần tôi không thích gặp mặt, nói chuyện gì với chị Hoàn. Ngay cả bữa cơm tôi cũng chỉ ăn qua quýt, tránh cái nhìn nhắc nhở của chị. Bây giờ mới thấy việc chị Hoàn hy vọng ở tôi không đơn giản như tôi tưởng. Tôi đã quá hấp tấp trong ngày đầu. Ngày thứ hai, thứ ba, ngày thứ tư nữa, tôi vẫn còn hấp tấp. Hễ nghe tiếng chút chít ở đâu, tôi lập tức xông tới liền. Mọi việc hỏng cả. Bọn chuột chúng nó trốn nhanh như kẻ trộm.
Tôi thấy cần phải cân nhắc cẩn thận. Ngày thứ năm, tôi cuộn tròn mình bên chân bàn, nhìn chăm chú vào góc nhà có để mấy thúng khoai. Nhìn, nhưng tôi lại làm bộ rất lơ đễnh. Nhiều lân tôi tự nhắc mình không được nóng vội. Thằng chuột đang còn trong tư thế xây lưng lại phía tôi, cái tư thế sẵn sàng bỏ chạy. Thế là chưa được. Bao giờ nó đang chúi mõm xuống đất, tốt nhất là nó đang hướng về phía mình. À, thằng cộc đuôi kia rồi, nó bắt đầp táp táp cái mõm háu ăn xuống nền nhà, háu ăn đến nỗi quên cả rung rung đôi tai. Đấy, nó táp táp cái mõm nhọn. Nhưng, bỗng có tiếng chị Hoàn:
- Miu…
Tôi vội tung mình lao tới. Nhưng hỏng rồi. Hai tay tôi chỉ vừa chạm vào cái đuôi cộc của nó.
- Đâu rồi? Miu…Lại đây mà.
Lúc này tôi không thích chị Hoàn một tí nào.
Tôi lẳng lặng bỏ đi. Tôi chẳng thiết ăn cơm đâu mà chị gọi. Chị chả hiểu tí gì cả. Để tỏ thái độ với chị, bữa cơm chiều tôi cũng không ăn. Chị không biết là tôi không ưa sự ồn ào trong công việc.
Cho đến chiều tối ngày hôm sau thì tôi tóm được chính thằng cộc đuôi ấy. Tôi thèm gì tóm đằng đít. Tôi tiến công thẳng từ trước mặt nó. Cũng thừa nhận là nó rất khoẻ. Đòn đánh của tôi là dùng hai cặp vuốt chộp vào gáy và lưng nó. Thế mà suýt nữa nó vùng chạy thoát nếu tôi không dùng ngay cả đôi nanh của mình.
Tôi định bụng sẽ khiến cho chị Hoàn coi việc tôi vừa làm chỉ là chuyện thường thôi, nên để xác tên chuột đó, chị Hoàn tự hiểu rõ sự việc. Nếu như chị tìm tôi về, khen ngợi, tôi cũng chả xúc động lắm đâu.
Định thế, nhưng tôi vẫn nóng lòng chờ chị Hoàn. Chị về đến nhà thì chiều đã thật muộn, muộn hơn mọi hôm nhiều. Chị vội vàng đi tìm tôi ngay. Vẫn tóm tôi từ ngoài sân, cho tôi ngồi lên vạt áo để đi vào nhà. Tôi làm ra vẻ thản nhiên, bất cần, để chị tự thấy việc tôi vừa làm. Nhưng thật ra lòng tôi rất hồi hộp. Chị Hoàn sẽ nói gì? Chị sắp sửa nói điều gì khác lạ lắm. Và chị nói:
- Miu biết không? Có chuyện quan trọng đấy.
“Quan trọng! Con chuột thì có là gì”
- Chiến tranh rồi đấy
“Chiến tranh?”
- Sao Miu vẫy tai ghê thế, sợ à?
“Sợ?...”
- Không sợ Miu ạ. Ông và bố sẽ làm hầm trú ẩn cho bọn mình, chỉ cần dũng cảm là chả sợ gì hết. 
“Tôi chả sợ gì hết. Nhưng chiến tranh là gì?”
- Máy bay Mỹ nó đến…
“Bay à, giống chim sâu ấy à?”
-Là chúng mình phải vào hầm trú ẩn. Hôm nay thầy giáo phổ biến rồi đấy. Học hành, hay làm gì cũng trong hầm trú ẩn. Đi đâu đó cũng đi dưới đường giao thông hào. Sẽ chẳng được đi chơi nhiều lắm nữa đâu. Miu biết không, quê ta miền biển nên càng gay go hơn…





3. Quê ta miền biển  

“Quê ta miền biển…” - Chị Hoàn nói thế đấy. Một câu nói bình thường, nghe mà tự dưng cảm nhận được nhiều điều. Có bãi cát. Có những thuyền, mảng dân làng vẫn thường dùng để ra khơi. Có bờ cây phi lao chắn gió, cát cho làng. Lại có một biển nước rộng mênh mông với muôn vàn các loại cá, tôm cho dân làng đánh bắt để sinh sống. Ở làng quê ta, nhìn về phía mặt trời lặn, thấy núi tím xa mờ. Chị Hoàn hay đọc sách, gọi đó là miền rừng núi. Mặt trời mọc từ biển lên, đi qua ngọn phi lao, đi qua những nóc nhà, đi mãi đến chiều tối mới tới miền rừng núi…
Tôi đang nghĩ miên man về miền núi với mặt trời, thì chị Hoàn gọi:
- Miu, lên giường đi ngủ.
Tôi lên giường. Bao giờ tôi cũng lên giường một lát để chị Hoàn yên tâm ngủ. Rồi tôi lại xuống chỗ chân bàn với công việc của mình, canh chừng bọn chuột. Nhưng đêm nay, chị Hoàn không ngủ được ngay. Chị cựa quậy suốt, thỉnh thoảng còn ngồi dậy, nghe ông nói chuyện với bố. Ông và bố nói chuyện rất lâu. Chuyện về vùng Hàm Rồng, Nam Ngạn và những vùng xa lạ nào đó đã có chiến tranh thực sự. Chuyện mai kia ra khơi, sẽ mang theo cả súng đạn. Chuyện về làm hầm hào. Rồi chuyện về đảo Hòn Mê. Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến cái tên đảo Hòn Mê.
Chị Hoàn quậy cựa mãi, có lúc ngồi lên ngóng ra chỗ ông và bố, làm cái giường kêu ọt ẹt. Bọn chuột bỏ chạy hết. Lúc lâu sau, chị lẹp kẹp đi đôi guốc mộc ra chỗ ông và bố, hỏi:
- Mai kia bố vẫn đi khơi, vẫn ghé vào đảo chứ ạ?
Tôi tự hỏi: “Đảo là chỗ nào nhỉ?”
- Ừ, đảo của mình, không ra sao được.         
“Là của mình”
- Bộ đội ngoài đảo có nhiều súng không hả bố?
- Nhiều. Thôi, ngủ đi con.
Người lớn cứ hay như thế đấy. Cứ tưởng chúng tôi không cần phải quan tâm đến những công việc mà họ nghĩ rằng quá xa, quá to tát so với chúng tôi. Thực ra, những việc ấy đều là của chúng tôi. Tất cả mọi sự trên đời đều ảnh hưởng đến chúng tôi cơ mà. Dù sao thì chị Hoàn vẫn phải lên giường đi ngủ. Ông và bố còn thức nói chuyện một lúc lâu nữa.
Bãi cát ngoài kia sáng ngời ngời. Trăng lên cao. Từ chỗ tôi ngồi, nhìn thấy trăng qua khung cửa sổ. Ông trăng đậu trên đỉnh cây phi lao cao nhất. Những cành cây đan chéo vào nhau, trông rất rõ. Nước biển ngoài xa đôi chỗ sáng loé lên. Gió biển thổi lên mạnh hơn, thổi tắt cả ngọn đèn dầu. Ông và bố không thắp lại ngọn đèn nữa. Khuya lắm rồi. Bố lấy cái quạt phẩy quẹt quẹt xuống nền nhà, chỗ trước cửa, ngả lưng xuống, vắt tay lên trán.
Ông vẫn thức. Mọi hôm ông thường thức khuya. Ông thức đến lúc gọi mẹ dậy luộc khoai cho người đi biển mang theo ăn trên đường ra khơi. Mọi đêm ông hay lục cục việc này việc nọ, như thít chặt thêm mấy cái phao trên mép lưới hay ra bãi kiểm tra dây lèo cột buồm. Đêm nay ông ngồi yên, hút thuốc lào nhiều lần. Những lần lửa đóm loé lên, tôi thấy da mặt ông đỏ ghê lắm, đỏ giống như màu mai cua chín. Trán ông cộm lên những nếp nhăn to tướng. Ông tên là Vược, đã nhiều năm trời dọc ngang trên biển cả. Bây giờ chắc ông đang nghĩ lại tất cả những gì ông đã trải qua. Người già nghĩ ngợi hay cau trán lắm. Tôi mon men đi lại gần ông, dụi đầu vào chân ông để ông dịu lại tí chút. Nhưng ông nhấc tôi lên, đặt ra góc bàn.
Tôi nhảy xuống đất, đi lại bên giường chị Hoàn. Chị ấy đã ngủ rồi. Ngủ đi một giấc để hôm sau mà đi học chứ. Những ngày tiếp theo sẽ còn ối chuyện mới.
                                                
*
                                             *      *

Những ngày tiếp theo, chị Hoàn vẫn đi học bình thường.
Một hôm đi học về, chị bắt đầu đan mũ rơm. Cái mũ to cộ, dày cộp. Chị còn bảo là tôi cũng nên đội loại mũ ấy.
- Để mà chống bom bi.
“Bom bi là cái gì mà phải chống?”
- Bi sắt nó bắn vào cái đầu này này.
“Đầu tôi cứng. Sợ gì”
- Lại ngại vướng víu chứ gì. Thế thì phải ngồi trong hầm suốt đấy nhé.
Ông và bố đã làm một cái nhà bằng đất ở ngay mé sân. Đó là căn hầm trú ẩn. Chị Hoàn bảo
-         Miu yên tâm trong đó nhé.
Mẹ đã mang vào hầm những thúng cá khô, thúng khoai, tôi ở đó là để làm việc. Những lúc ông chui vào thì phải cúi lom khom, rất khó khăn. Chị Hoàn dặn tôi hễ nghe tiếng súng thì phải vào hầm, đừng la cà bên ngoài nữa và đừng giật mình. Tôi có ý chờ xem tiếng súng như thế nào.
Bố đã đem về một khẩu súng. Đêm đêm đi khơi, lúc khiêng lưới đều khoác luôn cả súng theo. Tôi hay thức khuya nên thấy hết những lần như thế. Cái súng va vào đòn khiêng, va vào phao lưới, va cả vào chân người lốp bốp.
Hàng ngày, vào những lúc chị Hoàn rảnh rỗi, chúng tôi vẫn ra bãi cát tập dượt.  Chị có ý bắt tôi tập nhiều hơn. Tôi khoẻ lên rất nhanh, đã có thể nhảy gọn gàng từ cành phi lao này sang cành phi lao khác gần đó, và nhảy được từ mảng thuyền này sang mảng thuyền khác. Cả một dãy dài những mảng thuyền vẫn xếp dọc ven bãi biển. Tôi leo được lên cột buồn. Chị Hoàn rất khoái chí, liên tục vỗ tay hoan hô tôi. Chị bảo tôi nhìn ra phía khơi xa xem có thấy gì không. Tôi nhìn ra biển xa, gió thổi vào tai tôi ù ù, thổi vào tai tôi quá nhiều.
- Có thấy đảo không?
“Đảo nổi trên mặt biển kia chứ gì. Đứng dưới mặt đất cũng thấy cơ mà”
- Thấy không? Thấy bộ đội không?
Gió thổi có phần mạnh hơn. Cây cột buồm rung như sắp đổ đến nơi.
- Bộ đội mặc áo xanh, có súng ấy
- …?
- Trong truyện ông An - đéc - xen gọi là lính ấy.
Tôi chả hiểu gì. Đã bảo là tôi không được học hành mà lại.
Chị Hoàn có vẻ buồn. Những ngày sau, mỗi lần ra bãi biển, chị Hoàn đều khuyến khích tôi leo cao thêm lên cây cột buồn. Làm như lên cao nữa thì có thể thấy được lính đảo giống như lính trong sách truyện chị ấy hay đọc ấy. Mỗi ngày tôi đều leo cao hơn một chút. Nhìn ra khơi xa, thấy đảo xanh mờ và rất yên lặng trên biển cả. Nhìn vào làng, qua rặng phi lao, thấy nhà cửa, những vạt cát sáng loá in dấu chân người, những vằng lưới phơi lấp lánh vẩy cá…
Để nhìn cho thoả chí, tôi có thể trèo lên cao hơn cả đỉnh cột buồm nữa kia, mặc kệ cho gió cứ lay rất mạnh.
- Miu! Miu ơi!
Chị Hoàn gọi giật giọng khiến tôi giật mình.
- Miu, nghe thấy không?
-…?
- Xuống đi, xuống đi, nhanh lên nào! Máy bay đấy. Nghe thấy không, nghe thấy chưa?...
Tôi nhảy phóc xuống, đứng cạnh chị Hoàn. Gió từ ngoài khơi vẫn thổi vào ào ạt. Tôi lắng nghe, có tiếng ầm ì. Tiếng ầm ì xa xôi, đâu như ở mãi tận chân trời ấy, khác hẳn tiếng sóng biển đã thân thuộc với tôi từ ngày còn bé.






4. Ý muốn của chị Hoàn – Lên đường


Chị Hoàn được lên một lớp nữa. Mọi người đều phải công nhận như vậy, vì chị còn được cả giấy khen. Tôi bắt được thêm một số con chuột, khi chúng mon men vào ăn trộm cá khô và khoai, nhưng mà chả cần kể công làm gì. Có đến bốn, năm lần máy bay Mỹ ào qua mái nhà. Những lần ấy chị Hoàn kéo tôi ra hầm trú ẩn. Chỉ nghe tiếng kêu gầu gầu, và những tiếng nổ ục ục trên trời, xa lắm. Lần thứ sáu chúng bay rất thấp, tôi cũng nhìn thấy. Lúc đó tôi ngồi ở ngay cửa hầm. Tất nhiên là chúng nó lớn hơn chim sâu nhiều. Chúng nó có hai đứa, bay xoẹt một cái. Có nhiều tiếng nổ trong làng. Chị Hoàn bảo đó là súng của ta bắn lên.
Kể ra tiếng gào của chúng cũng to thật. Nhưng chị Hoàn giật mình chứ tôi thì không. Tôi ngồi trên lòng chị áy, nên biết, trống ngực chị đập dồn lên ghê lắm. Nhưng khi hết báo động, đi vào nhà, chị Hoàn đã cười được ngay. Nghe đâu hôm đó ngoài đảo Mê đã đánh nhau với tàu bay Mỹ. Cả làng nóng ruột chờ thuyền về để hỏi chuyện. Thuyền về muộn, mãi tối mịt tất cả số thuyền của làng đi khơi hôm đó mới về đủ. Ai cũng nói với nhau về đảo Mê. Đảo đã bắn rất mạnh lên tàu bay Mỹ. Hôm sau, những thuyền đi khơi đều lấy thêm cá, thịt, rau, để mang ra đảo.
Từ đó thành lệ, mỗi thuyền đi khơi đều mang theo một ít quà gì đó cho lính đảo. Càng ngày người làng càng hay nói với nhau những chuyện về đảo Mê. Đường làng đã thành giao thông hào. Tôi rất ngại kiểu đi giữa hai vách đất ấy. Nhiều khi đi học về, quần áo, tóc tai chị Hoàn dính đầy đất cát. Chị bảo, sắp xong đợt lao động rồi, thể nào cũng có việc phải làm. Việc của riêng chúng tôi chứ không phải những việc mà người lớn hay làm. Việc gì nhỉ? Tôi có ý chờ.
Chờ lâu rồi cũng đến lúc biết. Một buổi chiều, bọn tôi ra bãi biển. Trông chị Hoàn có phần nghiêm trang hơn mọi khi, đưa tôi đi hết bãi cát rồi mà vẫn còn cứ xăm xăm bước tiếp. Tôi ngồi trên đôi tay chị Hoàn, thấy nước biển ào ào cuộn bên chân chị, ngay phía dưới tôi. Chao ôi, nước cuốn ào ào, bọt bắn tung lên!
- Đừng sợ, Miu dũng cảm cơ mà. Chị muốn gửi Miu ra ngoài đảo ở với các anh ngoài ấy đấy.
Thế là tôi biết rõ ý muốn của chị, là đã hiểu cái việc phải làm mà chị nói mấy hôm trước.  

*
                                             *     *
Chị Hoàn bước vào một năm học mới thì tôi lên đường. Chị đã thu xếp mọi việc, từ bàn bạc với ông, viết một bức thư gửi theo tôi ra đảo Hòn Mê. Chị bảo, nhất định phải thế mới được. Ông cũng đồng ý và thu xếp cho tôi đi theo thuyền của ông, và ông hứa sẽ tận tay trao tôi cho các anh ngoài đảo.
Tôi mặc một bộ quần áo. Đó là chiếc khăn trùm đầu mùa đông năm ngoái của chị Hoàn. Chị tự tay cắt, may rất công phu. Chị Hoàn mặc bộ quần áo đẹp, thắt khăn quàng đỏ cẩn thận, ra tận bến thuyền để tiễn tôi. Tôi đứng ở mũi thuyền, mắt không lúc nào rời chị. Mắt chị cũng không lúc nào rời tôi. Khi thuyền rời bến, chị Hoàn còn chạy thêm nhiều bước xuống mép nước, cởi khăn quàng đỏ ra, phất mạnh lên và nói: “Lên đường, Miu lên đường nhé!”.
Tôi chỉ nhìn mà không nói được, chỉ thấy thuyền lướt đi quá nhanh. Chị Hoàn cứ lùi xa quá nhanh. Từng đợt, từng đợt sóng dâng lên, sóng ngăn mất lối mắt chị em chúng tôi nhìn nhau. Tôi trèo lên dóng ngang cột buồm để chị nhìn thấy tôi. Tôi thấy chị vẫy vẫy khăn quàng đỏ, mỗi lần vẫy một cái chắc chị có kèm theo một câu nói “Miu lên đường!...” Tôi leo thêm một đoạn nữa trên cột buồm. Lá buồm trên đầu tôi căng phồng, phần phật gió. Chị kia, hình như chị khóc. Tôi thấy chị đưa tay quệt ngang mắt, còn tay kia cứ phất cái khăn mãi…
Tôi thấy chị Hoàn đã ở rất xa, sẽ ở xa tôi ghê lắm. Biển rộng vô cùng. Ông nói gì với mấy bạn chài trên thuyền, tôi nghe loáng thoáng đâu như đã ra được ba sải nước rồi. Tôi trèo lên cao tít trên cột buồm, những muốn từ xa chị Hoàn vẫn trông thấy tôi. Tôi, em của chị đây, chị phải thấy chứ. Ngày tôi còn yếu ớt chân tay, chị thường đặt tôi lên vạt áo của chị. Bây giờ, tôi ở đầu này của biển, chị ở đầu kia của biển. Khoảng nước giữa hai chị em cứ mênh mông mãi ra, đẩy chị ra xa tôi nhanh quá.
Những bạn chài trên thuuyền nói với nhau là đã ra được năm sải nước. Rặng phi lao phía bờ bãi làng tôi chỉ còn cao hơn đỉnh sóng một chút. Biển xanh là một cái kỳ lạ nhất trên quả đất này, mỗi người đi biển đều phải công nhận điều đó. Càng đi ra biển khơi, người ta càng thấy biển rộng hơn. Nhưng tôi biết có cái còn kỳ lạ hơn, đó là tình người. Vì thế mà tôi còn thấy được chị Hoàn, đâu đó nơi xa tít tắp kia, đang đứng vẫy khăn. Sau này, có biết bao lần tôi còn thấy lại hình ảnh chị khi  ấy. Biển xanh, cát trắng, tấm khăn đỏ chị phất lên như tia lửa. Sau mỗi tia lửa chắc là có lời nói của chị Hoàn: “Miu, lên đường, lên đường, đi tới Hòn Mê!...”








5.   Đảo - Buồm nhỏ  


Ngay khi thuyền ghé vào chân đảo, tôi thấy trước mũi thuyền có một bãi cát giống bãi cát quen thuộc ở làng tôi. Cũng có rặng phi lao viền theo bờ cát, y hệt rặng cây chắn gió của làng. Ngay tiếp đó là lối đi, dốc cao lên. Theo lối ấy đi lên sẽ là rừng và núi.
Ông chưa cho tôi lên đảo ngay. Ông gọi mấy anh ra đón thuyền tới gần, nói với họ điều gì có vẻ hệ trọng. Tôi cảm thấy ông nói về tôi vì loáng thoáng có tên tôi trong câu chuyện. Mấy anh đều cười, rồi chạy xô về phía tôi. Nhưng ông ngăn lại:
- Khoan, các chú xem cái này đã.
Đó là bức thư của chị Hoàn. Một anh đọc, mấy cái đầu đội mũ sắt chụm vào đọc theo. Ngay sau đó các anh chạy ào xuống đón tôi.
- Hay quá nhỉ.
- Ồ, xinh quá.
Các anh còn chưa biêt tôi không thích người ta khen tôi xinh. Nhưng ngay lúc ấy một anh đưa hai tay đón tôi, nói:
- Thế là đảo ta có thêm một người lính!
Tôi bằng lòng ngay. Lính! Nói như thế tốt hơn. Tôi lên đảo để làm lính, chị Hoàn bảo như thế. Tôi thấy một niềm xúc động mới mẻ từ những anh lính đang tràn sang tôi. Anh nào cũng hồ hởi, khoẻ mạnh. Tôi sẵn sàng đi theo các anh. Nhưng khoan một chút, tôi chạy vụt về phía ông, nhảy lên lòng ông.
- Miu, Miu!...
Ông đưa bàn tay thô ráp vuốt đầu tôi, vuốt dọc sống lưng tôi. Tôi rưng rưng khắp cả người. Tạm biệt ông.
- Thôi, đi với các anh đi, Miu.
Tôi dụi cả người vào lòng ông một lần nữa, chào ông.
Những người lính chào ông, gửi lời chào đất liền, gửi lời cảm ơn chị Hoàn đã cho tôi đi làm lính đảo. Chúng tôi bắt đầu đi lên đảo. Đường đi dốc dốc. Tôi ngồi trong chiếc mũ cứng nồng mùi mồ hôi. Một anh lính đỡ bàn tay dưới cái mũ tôi đang ngồi, áp vào ngực anh. Tay kia của anh vẫn cứ bắt tay tôi, lắc lắc theo nhịp đi.
Tôi nhìn ra hai bên đường. Cây lá rậm rạp. Nhiều cây có cành xoắn vặn, ngoằn ngoèo. Hoa sim nở tim tím. Hoa dẻ thơm quanh quất đâu đó. Có tiếng hót lảnh lót và trong vắt của một loài chim gì. Tiếng hót của chim này ít thôi. Chỉ nhiều tiếng “gù ghì” của một loài chim đậu rất gần bên lối chúng tôi đi qua. Một bên là vách đá, bên kia thăm thẳm biển dưới chân. Các anh lính nhìn xuống biển, trật mũ ra vẫy theo đoàn thuyền của ông đang rời đảo để về đất liền. Ông và mọi người dưới thuyền vẫy vẫy tay. Anh lính nâng cao cái mũ tôi đang ngồi. Tôi cố nhoài người ra thật nhiều, để chào ông, cũng là chào chị Hoàn. Tôi nhớ chị Hoàn vô cùng. Bờ bãi làng tôi xa quá rồi. Biển ở sâu dưới chân đảo kia đã nhuốm màu ráng chiều, vàng rực. Những lá thuyền, trong đó có cả lá thuyền của ông nữa, khe khẽ đi trong vầng biển vàng rực lóng lánh ấy. Những lá buồm phồng lên, nhuộm nắng chiều, vàng như lửa. Hãy chở lời tôi về làng nhé. Tôi đi làm lính đây…
Tôi đang gắng ngóc cao hơn vành mũ, cái mũ mà anh lính đã vươn tay giơ cao lên quá đầu anh, thì có tiếng reo thốt lên của một anh lính khác:
- Đẹp chưa kìa. Ngân ơi, các cậu ơi, đẹp quá…
          Tôi quay lại nhìn, thấy anh lính vừa nói vừa chỉ tay về phía tôi, các anh khác đứng cách tôi một quãng cũng hướng về phía tôi. Anh lính kia vẫn nói:
- Thấy không, các cậu thấy không. Cái mũ của thằng Ngân in lên bầu trời, còn “cái cậu” kia vươn cao lên, y hệt một con thuyền con có lá buồm con. Thấy chưa, lông “cu cậu” màu hung hung vàng, nắng làm cho nó vàng ửng lên…
- Ừ, đẹp. Thích quá nhỉ
- Giống đấy…
Mấy anh lính khác đều tán thưởng. Anh Ngân cũng ngước lên nhìn cái mũ của anh, nhìn tôi . Tay anh cố vươn hết cỡ, đưa tôi cao thêm lên. Tôi nhìn xuống, thấy anh Ngân có đôi mắt rất to, và tôi nhìn thấy trong mắt anh có hình tôi trên chiếc mũ. Hình ảnh tôi trong mắt anh bé tí xíu, hơi rung rung in vào một khoảng trời xinh xắn và có vẻ xa xôi…
Đột nhiên, anh Ngân hạ tôi xuống thật nhanh, ghì vào ngực. Anh nói, giọng rất cảm động:
- Ui! Giống lắm, Buồm Nhỏ!...
Lúc đó tôi chưa biết rằng đây là giờ phút tôi có một cái tên để người ta gọi. Một cái tên giữa những tên gọi khác trong cuộc đời. Tôi chỉ thấy những anh lính đảo thật đáng yêu.

                                                 *
                                             *      *

Con đường vẫn dốc lên, đi sâu vào rừng núi to lớn. Những loại cây mới, những âm thanh của nhiều muông thú mới, liên tiếp hiện ra, vang lên hai bên đường. Tôi thấy ngỡ ngàng, nhưng tôi cũng nghĩ, rồi sẽ dần quen tất cả.
Anh Ngân là người đầu tiên công nhận tôi là lính, là người đỡ tôi đi suốt cả chặng đường đầu tiên trên đảo. Lên đến khu trung tâm, vào một căn nhà, có bàn ghế hẳn hoi, anh vẫn giữ tôi ở trước ngực anh. Đảo trưởng đi ra, hỏi han các anh lính một số điều. Anh Ngân đưa lá thư chị Hoàn gửi ra. Đảo trưởng bắt tay tôi ngay, lắc lắc rất dịu dàng. Tôi nhận ra rằng, trên đảo này toàn là lính thôi. Các anh ăn mặc giống nhau, kiểu đi đứng, điệu bộ rất giống nhau.
Lần đầu tiên trong đời, tôi được dự một cuộc họp, lại là cuộc họp của những người lính. Trước tiên, đảo trưởng giới thiệu tôi với mọi người. Ai cũng chìa tay ra với tôi. Tôi được bắt tay khắp lượt. Lúc sau, đảo trưởng bắt đầu đọc lá thư của chị Hoàn. Trong thư có đoạn tôi rất cần ghi nhớ: “Miu sẽ tiêu diệt hết bọn chuột trên đảo. Như thế cũng là góp phần đánh giặc Mỹ…”
Tất nhiên, tôi rất thích đoạn ấy. Nhưng có đoạn nghe có vẻ buồn cười quá: “Miu siêng năng nhé. Ăn uống chớ có tham lam. Đừng làm nũng các anh. Có nhớ nhà thì xin phép về mấy hôm, rồi lại ra…”.
Buồn cười quá đi ấy chứ, nên mấy anh lính cười ồ lên. Tôi phải chúi đầu vào ngực anh Ngân, cho đỡ ngượng. Anh Ngân thì lúc lúc lại cúi xuống nói với tôi:
- Buồm Nhỏ. Ồ, Buồm Nhỏ…
Căn nhà của những người lính dựng tựa lưng vào vách núi. Buổi tối, cây rừng chung quanh đem sẫm. Ngoài xa hơn, cả bốn bề đều có tiếng sóng vỗ và tiếng gió thổi. Những anh lính ngồi nghiêm chỉnh. Ánh đèn rọi vào những gương mặt rắn rỏi. Tất cả bàn về phương án tác chiến ngày mai.
Tôi hồi hộp mong đợi ngày mai.






6.   Anh Ngân 


Tôi thân với anh Ngân  ngay từ phút đầu gặp nhau. Những ngày sau lại càng thân hơn. Thứ nhất, anh Ngân là người được giao nhiệm vụ giữ gìn, quản lý kho tàng trên đảo. Tôi rất có khả năng để giúp anh trong công việc này. Thứ hai, anh là người quê miền rừng núi, nơi tôi chưa hề biết đến; tôi sẽ được biết miền quê đó qua nũưng câu chuyện anh kể cho nghe. Thứ ba, anh Ngân còn rất trẻ, trẻ gần bằng chị Hoàn ấy.
Qua anh, tôi mới biết về nhiều loại cây đã đến sống trên đảo Mê này từ lâu rồi. Mua và sim là loài cây bụi có khả năng chịu nắng nóng, khô hạn rất cao, cho hoa hồng tím thật đẹp, mọc rất nhiều trên đảo Mê. Thích nhất là sim cho quả chín tím lịm, “ăn ngọt lừ” – anh Ngân bảo thế. Hoa dẻ nữa, chịu khô hạn rất giỏi mà mùi hương thật êm mát. Cây phong ba cũng khá đặc biệt, “phong” nghĩa là gió còn “ba” nghĩa là sóng, phong ba mọc trên đảo bốn bề gió to sóng lớn mà sống rất kiên cường. Cây sống được trên đảo phải có đặc tính của loài cây gỗ rắn và lớn, chịu đựng được nhiều gió bão và sương muối. Cây đặc biệt nhất trên đảo Mê, là cây sang sang, cành xoắn vặn trông rất khắc khổ, nhưng rất kiên cường trong sương biển mặn và giông bão. Ngay trước cửa nhà tôi và anh Ngân cũng có một cây khá lớn.
Bây giờ đúng dịp vào thu. Cây sang sang có những chùm lá đỏ chói. Loài chim cu ghì hay đến đậu trên cành sang sang và hót “gù.. ghì…”. Giọng chim buồn buồn. Mấy lần tôi định vọt lên đuổi nó đi, nhưng anh Ngân nói:
- Nó là bạn của lính đấy.
“Tôi chỉ thấy nó kêu buồn buồn thôi mà” 
- Ở đây xa vắng nhiều thứ quá. Nó kêu thế là gợi nhớ nhà, nhớ quê đấy. Mà có biết nhớ quê nhà thì mới biết mình ở đây để chiến đấu bảo vệ quê nhà chứ.
          - …
          - Buồm Nhỏ chưa rõ lắm phải không? Ở đây lâu rồi sẽ hiểu thôi mà. Có khi nỗi buồn cũng là một bạn tốt đấy.
          Thỉnh thoảng anh Ngân hay tâm sự với tôi.
- Nghe người ta kể nhé, Buồm Nhỏ…
“Anh kể đi, không cần vuốt vuốt tai tôi, tôi vẫn nghe rõ”
- Ở quê người ta mùa này có nhiều loại quả chín.
“Tôi chỉ nhớ những món cá chị Hoàn vẫn cho ăn”
- Có nhiều loài chim hót hay, giọng trong vắt, khắp cả mọi phía rừng. Chim đến ăn quả chín, vừa hót, vừa múa. Đẹp lắm.   
Tôi nép mình sát vào bên anh.
- Có lẽ kỳ này máy bay Mỹ cũng mò đến quê người ta rồi đấy. Buồm Nhỏ biết không, hôm kia đài đã nói mà.
“Hèn gì ngày nào chúng cũng bay vè vè vào phía đất liền”.
- Cứ ngồi bó giò ở cái kho này, không được đánh đấm, buồn tay buồn chân lắm.
Tôi cũng thế, dẹp xong bọn chuột, chả có việc làm, cũng thấy buồn chân buồn tay thực.
Nhiều ngày như thế, cả anh Ngân và tôi thấy bức bối chân tay lắm. Cho đến một hôm, anh Ngân mang các thứ nhu yếu phẩm đi cấp phát cho các anh ở Đá Bạc. Đá Bạc là một đơn vị ở tận mé bên kia đảo. Tôi thấy muốn đi loanh quanh tí chút, nên mon men từ con đường trước nhà, rồi đi ra xa. Đi được một quãng trên lối đường rộng thì bỗng nhiên tôi thấy có đứa nào đấy chạy loạt xoạt trong bụi cây. Tôi hăng máu lên, xô tới. Một thằng chuột, nhưng rất to và dài. Hoá ra ở đảo có loại chuột to đến thế kia đấy, lại còn biết ăn cắp đồ đạc. Rõ ràng tôi thấy thằng vừa rồi có cắp một thứ gì, như chiếc giày của lính. Nhiều cành cây lắt nhắt, vướng víu quá. Tôi bẻ mấy cành cây liền mà vẫn chưa đi lọt. Nó thì đã tuồn vào phía bên trong. Tôi cố lách qua một vòm cây rậm, vào được bên trong, và bỗng nghe thấy tiếng kêu “léc chéc” rất lạ. Tôi đi về phía tiếng động lạ ấy. Càng đi, tôi càng nghe nhiều tiếng kêu như thế.
- Léc chéc, léc chéc…
Có những quả sim từ đâu đó ném vào đầu tôi.
- Léc chéc, léc chéc.
Một quả sim đứa nào ném đúng vào mũi tôi. Tôi nhìn lên. À, trên cành cây có cả thằng cắp chiếc giày bên nách. Xuống đây. Cả mấy đứa, xuống đây xem nào. Hình như không phải bọn chuột. Sao tay chân chúng nó dài thế!
Chúng nó vẫn ở trên cây, chỉ chỉ trỏ trỏ, có vẻ chọc tức tôi. Tôi lập tức trèo lên cây, định tóm lấy một đứa. Nhưng quả thực là chúng nó chuyền cành giỏi hơn tôi. Tôi nhảy đến một cành có một đứa đang ngồi vắt vẻo, nhưng thoắt cái nó đã tót sang một cành khác. Bọn nó còn cười rất ngạo mạn. Bực quá, tôi lên cành cây cao hơn. Vẫn trượt. Từ một cành cây, tôi lấy đà, nhằm chồm sang thằng đang ôm chiếc giày khư khư ở ngực. Tôi lao vút sang. Nhưng kết cục, tôi chỉ tóm được một chùm lá, và thấy người bị hẫng hẳn đi. Chùm lá thõng trĩu xuống, rồi lại bật vút lên như muốn hất tôi văng đi. Tôi bám chặt hơn. Thằng cắp giày và mấy đứa bạn nó đã tót sang cây khác. Từ bên đó, chúng nó nhìn sang tôi đang bị treo beng leng, cười khanh khách có vẻ khoái chí.
Không còn cách nào khác, tôi đành thả mình rớt xuống. Không may, tôi rớt vào một hốc đá. Tôi loay hoay trong cái hốc đá một lúc lâu. Quái quỷ, vừa sâu vừa nhỏ, không có chỗ lấy đà. Tôi đang lúng túng bấu víu quanh vách cái hốc đá thì bọn lạ mặt mon men xuống. Chúng nó tưởng tôi đùa trò gì, nên đến xem. Cả mấy đứa lâu nhâu quanh hốc đá, chỉ trỏ tôi. Một đứa thò cánh tay xuống, cái loại cánh tay thấy một lần sẽ phải nhớ cả đời. Nó mốc meo như một que củi đầy rêu vàng vàng. Thằng này đã thò cánh tay như vậy xuống ngay trước mũi tôi. Ý chừng nó muốn xem có gì ở vách hốc đá tôi đang cố bám víu chăng. Lập tức tôi nắm lấy tay nó, bấu chặt, rất chặt. Nó la lên khiếp hãi, rồi rút mạnh ta lên. Theo đà, tôi đu người lên khỏi cái hốc đá. Tôi  bấu vào tay nó chặt thêm nữa. Nó vùng vằng rối rít. Tôi đã choàng cả hai tay bám vào vai nó. Bố khỉ, lông lá gì mà khét lẹt. Nó vùng chạy. Tôi lênh bênh sau lưng và chân tôi thì đá liên tiếp vào đít nó. Nó la váng cả lên, chạy thục mạng. Cành lá quất vun vút qua tai tôi, có lúc quệt vụt vào trán. Bỗng, hập một cái, tôi ngã vật xuống một gốc cây. Chỉ kịp nhìn thấy chúng nó bỏ chạy hết, rồi tôi lịm đi…
Vẻ như tôi đã ngủ một giấc mê mệt, tỉnh dậy, tôi quên mất lối về nhà rồi. Chiều buông xuống quá nhanh. Qua cành cây, kẽ lá, tôi thấy một mảnh trời cao tít đã nhuốm màu hồng pha ánh bạc. Có một con chim hải âu. Anh Ngân đã có lần kể cho tôi nghe về loài chim biển này. Chúng sống thênh thang trên những vùng rộng lớn không có nhà cửa, không làng mạc, chỉ có biển cả. Đôi cánh gầy, dáng bay lòng khòng, nhưng khoan thai, bền bỉ. Tôi nhìn hải âu bay qua khoảng trời sau kẽ lá, lúc hoàng hôn, chợt thấy nhớ làng quê vô hạn. Nhớ chị Hoàn quá. Anh Ngân giờ này đang làm gì, có nhớ đến tôi không? Lòng nghĩ ngợi miên man, tôi cứ đi tiếp. Trời tối nhanh. Cây cối, vách đá đối với tôi vừa huyền hoặc vừa bí ẩn. Chỉ có bọn đom đóm là bay lượn quá vô tư. Chúng nó dập dìu đi chơi. Từng đàn, từng lũ lập loè nghịch ngợm khắp mọi chỗ mọi nơi. Hồi còn ở đất liền, tôi có gặp vài ba con bay ngang qua sân nhà trong những buổi tối. Chỉ dăm ba con thôi, mà chúng bay khá cao trên đầu tôi. Còn bây giờ, chúng nhiều hằng hà sa số. Phía nào cũng dày đặc bọn chúng. Bọn nghịch ngợm và lạnh lùng này làm rối cả đầu óc người ta, đến nỗi tôi thấy bốn phía đều rất giống nhau. Không biết nên đi về đằng nào nữa. Tôi mỏi chân, đói, nên càmg mệt. Mỏi mệt đến nỗi tưởng như vấp vào một con đom đóm cũng ngã mất. Tôi nằm ẹp xuống, nhắm mắt cho đỡ phải nhìn bọn đom đóm…
…Đầu tôi chạm vào lòng bàn tay to và ấm. Anh Ngân! Tôi đang được anh Ngân ôm siết vào ngực. Anh cúi xuống hà hơi ấm vào tai tôi.
- Buồm Nhỏ. Buồm Nhỏ…Ồi, cựa quậy thế là đang sống đây mà.
Tôi cựa quậy thêm nữa.
- Tỉnh chưa nào, hở? Người ướt mèm sương. Ngủ ghê quá đi mất.
Tôi cứ dúi thêm mãi cái đầu mình vào người anh. Anh cởi cúc áo cho tôi rúc đầu vào. Đêm trên đảo lạnh thấu xương, chỉ có ngực anh Ngân là ấm.
Nghe anh Ngân nói, tôi mới biết rằng anh đã đi tìm tôi suốt từ chiều cơ đấy. Anh còn nói, lúc đi tìm tôi, anh gặp bọn khỉ, chúng nó léc chéc cả đàn. Anh bảo đã lo tôi bị bọn chúng nó bắt nạt. Hoá ra cái bọn tôi gặp ban ngày là khỉ đấy. Chúng nó đông thật. Nhưng tôi đuổi chúng nó chạy tán loạn đi ấy chứ, bắt nạt tôi sao được. Mà thôi, nói ra thì thành đứa huyênh hoang mất. Tôi đã bỏ đi suốt cả ngày hôm nay khiến anh Ngân phải vất vả vì tôi đấy thôi. Tôi áp mái đầu vào ngực anh Ngân, áp thật êm, coi như là xin lỗi đấy.
Trời đã thật khuya. Đom đóm dày đặc chung quanh. Anh Ngân đưa tôi đi, những bước thật chắc chắn. Tôi cảm thấy anh hết lòng yêu quý tôi, và cũng thấy mình lớn khôn lên một chút nữa.






7. Lại lên đường - Những bến lạ


Mùa đông đã đến.
Sương mù trên đảo rất dày. Màn sương mờ mịt khiến tầm nhìn của lính đảo bị hạn chế nhiều, máy bay Mỹ thường lợi dụng tình thế này để tấn công Hòn Mê. Có nhiều cuộc đọ sức khá quyết liệt giữa lính đảo với bọn máy bay Mỹ. Nhiều tốp F105 và các loại họ hàng của chúng đã bị lính đảo bắn cho toé khói, bỏ chạy.
Quả thực là bọn giặc đã gây cho chúng tôi một số khó khăn. Chúng nó tấn công vào các trận địa trên đảo, ném bom vào mọi chỗ có kho tàng, vũ khí của ta. Những chỉ thị của đảo trưởng luôn luôn được truyền xuống các đơn vị. Anh Ngân và tôi được lệnh phân tán kho tàng ra khắp đảo, để nếu có bị bắn phá chỗ này thì vẫn còn những chỗ khác. Thế là bắt đầu những ngày vất vả.
Sáng nào anh Ngân cũng dậy sớm, khuân vác những hòm xà phòng, những kiện đồ hộp, những thùng dầu bôi trơn cho các bộ phận súng, pháo, và cả những bó giẻ lau pháo nữa. Anh chất những thứ đó lên chiêc xe cải tiến, chở đi. Nhìn anh kéo xe ra đi mỗi sáng, tôi ước mình thật khoẻ để có thể giúp anh. Khi khoác cái dây kéo xe vào vai, anh thường dặn tôi:
- Một mình Buồm Nhỏ ở nhà, phải bảo vệ lấy tất cả các thứ kia đấy.
Anh chỉ những hòm, những thùng còn lại trong nhà. Việc ấy thì dễ hơn. Chỉ lo cho anh kéo chiếc xe nặng trên những lối đi, máy bay Mỹ bất thường có thể nhào xuống bắn phá. Tôi tiễn anh ra ngõ, anh còn ngoái lại bảo tôi:
- Thôi, vào đi!
Tôi ẩy ẩy tay anh, là muốn bảo anh cứ đi đi.
Anh kéo chiếc xe lóc cóc, đi khuất vào lối đường quành. Tôi dõi theo anh. Phía nào có tiếng súng, tiếng bom, tôi lo về phía đó. Lo cho đến lúc anh về. Anh hay về muộn. Có lần mặt mũi lấm lem, lần thì áo bị rách toạc, đất bụi bê bết. Lại có lần chân anh bị rách toác một miếng, chảy máu. Thấy tôi nhìn, anh bảo:
- Bọn Mỹ nó ném người ta đấy.
Tôi lau lau vết đau cho anh, lau thật nhẹ.        
- Buồm Nhỏ vẫn làm tròn nhiệm vụ chứ?
Anh Ngân nâng tôi lên, kiểm tra xem có bị thương gì không. 
Chuyện của bọn tôi ngày ngày cứ như vậy. Cho đến một hôm, anh Ngân đi họp về, nói với tôi:
- Buồm Nhỏ, ở bên Đá Bạc người ta yêu cầu Buồm Nhó sang đó ít hôm đấy. Tạm xa nhau vài ngày nhé.
          “Chia tay thì hơi buồn. Nhưng sang đó làm gì nhỉ?”
          - Bên ấybọn chuột ăn mất nhiều xà phòng, cắn nát cả bao nhiêu giẻ lau pháo.
          “Thế là tôi phải đi ngay chứ còn gì”
          Anh Ngân đưa tôi sang Đá Bạc ngay hôm ấy. Đá Bạc là một cao điểm quan trọng của đảo. Các anh lính trên cao điểm này đã rất nhiều lần chiến đấu với tàu chiến và máy bay Mỹ. Bấy giờ bọn chuột đang phá phách các đồ dự trữ, kho tàng, quần áo của các anh. Tôi đến, vào việc ngay. Tất cả bọn chuột ở Đá Bạc đều khiếp sợ tôi.
          Mấy hôm sau, anh Ngân sang, tưởng anh đón tôi về. Nhưng anh nói:
- Không phải là về nhà đâu nhé. Còn đi vài nơi nữa cơ đấy.
- ?...
- Có lẽ phải đi khắp đảo thì Buồm Nhỏ cũng đi, nhé. Đây mới là bến thứ nhất.
          Đúng thật, tôi là Buồm Nhỏ. Đá Bạc là một cái bến. Chỉ vài ngày lưu lại đây mà các anh lính thật bịn rịn khi tôi tạm biệt Đá Bạc. Họ bảo rằng tôi đã làm cho họ rất yên tâm. Những cánh tay lính Đá Bạc vẫy vẫy theo tôi. Đi được một quãng xa, tôi còn ngoái lại chào.
                                                          
                                                           *
                                                       *     *

          Từ Đá Bạc, tôi đến Khe Sâu. Ở đây vừa có một cuộc chạm trán giữa lính đảo với tàu bay Mỹ. Cây cối bị đổ gãy tả tơi. Những tảng đá lớn bị chém vạt đi từng mảng. Những anh lính Khe Sâu đang sửa sang lại hầm hào, công sự. Nhiều thùng chứa nước ngọt bị đổ, mấy thùng khác bị đất bụi bay cả vào. Quần áo các anh lấm bẩn lem nhem. Công việc của lính Khe Sâu lúc này rất bề bộn. Công việc của tôi cũng rất nhiều. Bọn chuột ở đây quá quắt lắm. Một anh nói để tôi biết:
- Có ba tấm bạt bị chuột khoét thủng rồi.
Bạt là thứ rất cần thiết để che nắng, che mưa cho lính đảo, che súng, pháo nữa. Vậy mà bị bọn chuột nó khoét đi thế, tôi tức lắm. Nhìn các anh sắp xếp các thứ còn lại, tôi thấy vài tấm bạt nữa có lỗ thủng. Tôi đưa tay sờ vào các lỗ thủng, mùi khét lẹt.
          - Bị bom đấy. Bom Mỹ nó cắn cũng nặng, Buồm Nhỏ nhỉ.
Một anh khác thấy tôi có vẻ tiếc rẻ, liền nói:
Xếp vào hang đá sẽ không bị nữa đâu.
“Xếp vào hang đá đi. Tôi sẽ trị cái bọn chuột ở trong hang”   
Thế rồi lại một cuộc tiễn đưa sau những ngày tôi dốc hết sức làm việc ở Khe Sâu. Các anh lính ở đây gói cho tôi mấy con cá để ăn đường, rồi chào nhau.
Qua một buổi chiều đầy sương trên lối đi, tôi đến kho rau, gạo ở ghềnh Chàng Mong. Bàn chân tôi nhớ nhất những giọt sương, từng bước, từng bươc áp xuống thấy tê buốt. Một đội thuyền do nữ dân quân trong đất liền hay chở đồ tiếp tế cho đảo, nên có người còn gọi địa điểm này là ghềnh Nàng Đợi. Sương mù dày đặc từ sáng đến đêm, và lại từ đêm đến sáng, mù mịt, lạnh lẽo. Vô ý chạm phải một cành sim, mà chả cần thế, chỉ cần một làn gió thổi qua là sương đọng sẵn trên lá sim sẽ như những cục nước đá rơi vào mình ngay. Nếu nó rơi vào tai thì rất tệ hại. Tôi đã bị một lần rồi, ngoài bị tê điếng lỗ tai còn thấy trong tai chỉ có mỗi tiếng ù ù, làm tôi không kịp phát hiện ra kẻ thù. Thằng chuột làm lăn một củ su hào tôi mới biết. Do vậy, tôi buộc phải cụp tai xuống mỗi khi đi lại.
Chàng Mong – Nàng Đợi, tên ghềnh đá thật lạ. Đây là trạm đón những rau, gạo, thịt, cá, mắm muối, nước ngọt… từ đất liền ra. Những ngày tôi ở đây, không thấy có thuyền nào tới đảo. Đợt gió mùa này quá dữ dội. Vùng biển lại đang bị tàu chiến Mỹ kéo vào ồ ạt. Tình hình thật nhiều khó khăn. Một buổi tối, gió bấc hun hút, tôi đang ở vị trí làm việc của mình, bỗng nghe tiếng giày bước lập cập, tiếng một hòn đá lăn. Rồi tiếng người quát to:
- Tắt đèn pin đi. Tắt đi! Các ông định biếu bọn phi công Mỹ chỗ rau còn lại đây hay sao?
          - Ờ, ờ… Đừng có nạt nhau. Cánh tớ đã giã nhau với bọn nó nhiều rồi. Việc gì mà phải sợ quá thế?
          - Sợ, thì tớ chẳng còn ở đây, lấy ai tiếp các ông lúc này.
          - Tiếp đón quái gì. Xin ít gạo thịt, rồi đi ngay đây. Có rau xanh đấy chứ?
          - Su hào. Nhưng mà ngốn vừa thôi, các ông nhé.
          - Này. Đói cơm cũng được. Còn rau, ông cứ đánh đấm vài trận xem cần đến mức nào. Suốt ngày quần nhau với khói lửa, háo phổi kinh khủng.
          Có tiếng chọn su hào. Rồi tiếng trò chuyện.
- Ồ, tươi nguyên ông ạ. Ở nhà mình mùa này, cứ ra vườn hái mà gặm như củ đậu ấy…
          - Này. Cả khẩu đội cậu chỉ được năm cân thôi, ăn một tuần đấy. Thôi nào. Còn phần cho người khác nữa chứ. Tớ không tiếc các ông đâu. Nhưng gay quá, thuyền có ra đảo được đâu nào… Tớ xin các ông. Bọn tớ cũng thế thôi, giữ lại, là để các anh em khác mỗi bữa có hơi rau xanh gọi là. Chịu khó vậy đi.
          Tiếng vỗ vai nhau.
- Này, nấu cả những cái lá kèm vào. Giập tí chút, nhưng non đấy, cho khỏi phí.
          Tôi không hay ăn rau. Nhưng nghĩ, nếu không có cá để ăn thì có lẽ tôi không bắt được chuột mất. Thế mà ngày nào trên đảo cũng đánh đấm, báo động. Tôi buồn. Nếu là chị Hoàn, chắc chị đã khóc oà lên vì thương các anh ấy. Đêm đó, tôi ngủ bên những củ su hào còn lại. Còn ít quá. Ngày hôm sau, tôi cũng bắt đầu hiểu nỗi mong đợi của các anh lính. Vẫn chưa có thuyền ra đảo. Việc của tôi là tiếp tục đi.
Tôi sang Hòn Dơi, Hòn Vàng bằng thuyền, đi trên mặt nước xám ngắt, dưới vòm sương mờ mịt và lạnh toát của biển mùa đông. Mùa đông, thiên nhiên có phần ảm đạm và khắc khổ. Gió bấc trên đầu và đá sắc dưới chân. Nhưng vẫn phải đi. Trên mỗi hòn đảo nhỏ chung quanh Hòn Mê đều có các phân đội chiến đấu. Tôi đến, chủ yếu là để bảo vệ giẻ lau pháo, xà phòng dùng tắm rửa cho pháo và đồ ăn cho các anh lính. Bọn chuột thấy tôi đến thì tan tác ngay. Tôi lần lượt đi qua các đảo nhỏ trong thời gian lính đảo vẫn sống trong tình trạng báo động căng thẳng. Những hoạt động trên đảo nào cũng thật khẩn trương, gấp gáp. Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ, tôi hiểu thêm chút ít về những đảo này, do nghe lỏm được chuyện của các anh lính. Đây chính là quần đảo Vị, gồm mười sáu hòn đảo nhỏ quây quanh đảo lớn Hòn Mê. Từ xưa, quần đảo Vị là nơi thuyền đánh cá của cư dân các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá và Nghệ - Tĩnh vẫn ghé vào neo đậu những khi đi khơi gặp phải bão gió. Thời hoà bình mấy năm về trước, dân chài có thể ghé vào đảo bất cứ lúc nào, lên thăm những anh lính biên phòng hay mấy anh gác đèn biển. Trên đảo lớn Hòn Mê có nhiều khu rừng. Có giống quýt rừng và cả bưởi rừng quả cực chua, nhưng mùa xuân hoa nở trắng, thơm ngào ngạt. Lại có san hô màu đỏ dưới đáy biển quanh chân đảo. Mọi người có thể hái quýt ăn thay chanh, hái bưởi nhắm mắt mà ăn nhưng giải khát rất tốt, và lấy san hô về trang trí ở nhà. Người ta bảo khắp các vùng biển của nước mình, chỉ có vùng đảo Mê này là có san hô màu đỏ.  Những điều ây, tôi ở ngay đây, cũng chỉ được nghe kể thôi.
Bây giờ đang có gió bấc rất dữ và báo động căng. Mấy anh lính đảo ủ tôi vào trong áo bạt của các anh khi đi thuyền trên mặt biển, qua các hòn đảo. Đôi khi tôi nghĩ đến chị Hoàn và thèm một ngày có nắng quá…
Chuyến thuyền chở tôi về Hòn Mê ghé vào một bờ đá dựng đứng, cao vút. Leo lên những bậc đá thật cao và dốc thì tới tháp đèn Hải Đăng. Tôi lên tháp đèn Hải Đăng, ở lại đây cả tuần lễ. Công việc của tôi chẳng có gì khác trước. Hai anh ở đây không phải là lính chiến đấu. Các anh có nhiệm vụ cứ gần tối là đi thắp sáng ngọn đèn trên tháp cao. Hai anh bảo, đó là con mắt của biển. Một anh nhìn tôi, ánh mắt hau háu mà lại như cười, rồi nói:
- Cặp mắt Buồm Nhỏ trông sáng xanh thế kia.
“Tôi cũng biết thế. Tôi cần phải làm việc về ban đêm”
- Cho bọn mình để lên tháp cao kia, thay cho đèn thì tốt lắm.
Tôi biết các anh đùa, nên ngoảnh mặt đi chỗ khác.
- Ghê nhỉ. Bọn này còn làm con mắt của biển, để mọi tàu, thuyền biết lối đi cơ đấy. Đừng chê nhau nhé.
          Tôi muốn bắt tay hai anh như bắt tay các anh lính chiến, mặc dù tôi không am hiểu công việc của các anh lắm. Chỉ biết rằng hai năm, kể từ khi có chiến tranh, đêm nào ngọn đèn cũng được thắp sáng. Mà, giữ những ngọn đèn trên tháp cao tít kia sáng suốt những đêm chiến tranh là khó khăn vô cùng. Hai anh giữ đèn sống xa mọi người, rất ít được gặp mặt và nghe tiếng người. Tôi được hai anh xin đảo trưởng cho đến Hải Đăng vì tôi là một cái gì na ná như một niềm vui đất liền gửi ra cho đảo. Tôi luôn được các anh vồ vập, nâng niu, chiều chuộng. Có thức ăn gì ngon đều muốn mang ra cho tôi ăn. Còn công việc của tôi thì rất nhàn. Vật dụng của hai anh chỉ có ít quần áo, ít gạo, ít rau củ, mắm muối… đố bọn chuột dám đụng đến khi tôi đã ở đây. Hai anh Hải Đăng nhiều thời gian rỗi, tôi càng được cưng chiều. Hải Đăng rất cao, nên nhiều gió lạnh. Tôi được các anh bọc trong chăn, đệm. Tôi không thích chăn, đệm nên thường tuồn ra.
- Nào, Buồm Nhỏ, rét thế, đi đâu đấy?
Tôi muốn chuồn về quá, về chỗ anh Ngân thì rất tốt.
- Lại đây, nào…
- Ồ, cái tai Buồm Nhỏ xinh quá.      
Tôi không thích xinh đâu mà.
- Hay Buồm Nhỏ cũng mong tin nhà đấy?
Tôi nhìn hai anh, thấy các anh thật hiền.
- Thôi, lên tháp sưới nắng tí nhé. Có nắng rồi.
Lên trên tháp, rất cao, nhìn ra thấy biển phẳng lặng đến tận chân trời.
- Kìa, những lá thư.
Tôi không hiểu những thư nào. Anh ngồi bên cạnh tôi cũng chăm chắm nhìn ra xa, rồi nói:
- Ừ, ừ đúng rồi!
Tôi nhớ, chị Hoàn cũng có biết viết thư.
- Có lẽ thuyền thư nào bị bom dọc đường…
- Có thể.
Tôi cũng đã nhìn thấy. Những tờ giấy gấp vuông vuông dập dênh mãi ngoài xa, như đang vẫy vẫy.
Hai anh trở nên tư lự, bần thần.
- Thư trước thằng em mình gửi ra, nó viết là đã được đi học ở nước ngoài. Có khi thư nó gửi từ Liên Xô về, chưa tới…
- Mình chỉ mong tin mẹ.
Tôi chưa hề biết những lá thư quan trọng như thế nào. Nhưng tôi chợt nhớ chị Hoàn, nhớ ông nội, bà nội nữa. Bỗng mong một tin gì, một tin gì đó từ trong đất liền đến với tôi. Mong vô cùng.
                                                
                                                 *
                                             *     *

Tôi phải rời Hải Đăng để về cao điẻm Lô Cốt, vì trong đó gọi tôi.
Ở đây có cái lô-côt đã được xây cách đây mấy chục năm. Thành xi-măng rất dày, xù xì rêu mốc. Tôi thấy trên mặt phẳng bức tường có khắc những chữ gì ấy, tôi vốn không biết đọc mà. Nhưng trông nó có vẻ buồn cười. Nếu tôi đặt bàn tay xuống mặt cát rồi nhoáy một cái, nhấc tay lên thì dấu tay tôi cũng thành một vết na ná như những chữ kia. Các anh lính bảo rằng chỗ tôi đang đứng đây rất quan trọng. Ngày xưa bọn Phát xít Nhật đã dịnh chiếm lấy. Chuyện ấy đã cũ mèm rồi. Bây giờ, đây là một cao điểm đánh Mỹ.
Những anh lính Lô Cốt đón tiếp tôi rất niềm nở.Các anh biết tôi mới đi công tác khắp cả quần đảo về, nên mang cho tôi nào cá, nào thịt. Cái hôm tôi trên đường đi từ Hải Đăng đến đây, đã có thuyền tiếp tế từ đất liền ra đảo. Tôi không ăn được nhiều, các anh cứ rối rít cả lên.
- Buồm Nhỏ có vẻ sút cân
- Này, ăn nữa đi. Mong mãi.
          - Ăn no cho lại sức, rồi thì ối việc làm đấy.
          - Không, Buồm Nhỏ cần được nghỉ ngơi tí chút đã. Sưởi cho hết nắng đi, Buồm Nhỏ nhé.
          Đã có nắng. Sang xuân thật rồi. Ngay trước cái lô-cốt có một bồn hoa. Các anh lính phải đi làm thêm công sự mới. Tôi nghe lời các anh, nghỉ ngơi bên chỗ bồn hoa.
Quả thực là rất khoan khoái. Có lẽ những cây hoa kia cũng thế. Mẫu đơn, hải đường, mào gà… nhiều nhất là mẫu đơn. Chúng nó đỏ rực, lấp lánh trong nắng. Kỳ lạ thật, những cây hoa có thể mọc trên đất đá, giữa bốn bề biển, gió sóng, nắng sương. Chúng đỏ bừng bừng như niềm vui sung sức. Bỗng dưng, từ chỗ các anh đang đào công sự có người thốt kêu lên:
- Xương người!
Rồi tiếng mấy anh nữa.
- Xương người, các cậu ơi.
- Ôi, đây nữa! Nhè nhẹ nào.
          - Ừ, đúng rồi.
          Tôi đi lại chỗ các anh. Mấy anh lính không nói năng, bàn tán nữa. Tất cả đều nhìn về phía một anh đang lần lần bàn tay áp nhẹ lên những đốt xương người, miệng lắp bắp:
- Đúng rồi, của dân làng… ngày xưa đây.
Nói, rồi anh đứng lên, nhìn khắp lượt đồng đội, bắt đầu kể chuyện xảy ra cách đây mấy chục năm. Ngày ấy, có mười hai người dân đi biển, chính là dân làng tôi, đã bị bọn Phát xít Nhật bắt cóc tất cả. Chúng đem họ lên đảo xây lô-cốt. Xây xong chúng giết họ luôn để giữ bí mật cho chúng. Cách đây mười mấy năm, những anh lính đầu tiên ra đảo, đã tìm thấy một số bộ xương người rải rác trong các khe đá. Các anh ấy gom những bộ xương đã tìm thấy được và chôn cất luôn ở đảo. Rồi họ trồng lên một bồn hoa thay cho nấm mộ. Bồn hoa trước lô cốt…
Những anh lính hôm nay lại đem những xương cốt mới tìm thấy, chôn cất dưới gốc những cây hoa. Những cây hoa đỏ bừng bừng thế kia.
Tôi lặng yên nhìn những anh lính làm việc đó. Xong, các anh ngả mũ, kính cẩn trước bồn hoa. Im ắng bao la. Im ắng đễn nỗi một tiếng người dường như cũng vang vọng vô cùng, vang rung rinh cả đảo đá ngày nắng đẹp, không có tiếng súng nào.






8.   Đấu tranh với chính mình
còn khó hơn diệt kẻ thù   


Suốt một thời gian dài, phương châm sống của lính Hòn Mê đã nổi tiếng khắp nơi trong nước. Phương châm đó là “Ba ít, một nhiều”, nghĩa là ít lương thực, ít súng đạn, ít thương vong, và nhiều máy bay Mỹ bị hạ.
Tôi sẽ rất giận nếu ai đó nói đến số lính trên đảo Mê mà không có tôi. Tôi đi đứng, sống trên đảo đá này! Dịp này tôi có mặt ở Đá Bạc. Đi một vòng qua các nơi, về đến Đá Bạc, tôi thấy cảnh, thấy người khác trước nhiều. Những mỏm đá cao bị bom phạt sứt sẹo, lở loét. Mấy lũng cây bị cháy, trơ lại những thân gỗ đen, gầy lòng khòng. Những anh lính có vẻ gầy. Thuyền chở gạo, nước ngọt và thực phẩm đã hơn một tháng liền không ra đảo. Tình hình vùng biển căng thẳng quá, như các anh lính nói, máy bay chúng nó không giảm cường lực đánh phá mà lại thêm cả pháo kích của chúng từ chiến hạm ngoài khơi bắn vào vùng ven biển của ta.
Bọn chuột có vẻ liều mạng hơn trước đây tôi thường thấy. Đói, nên chúng liều lĩnh mon men đến chỗ để lương thực và thực phẩm dự trữ. Thoạt tiên tôi cứ tưởng nhiều chuột lắm, bởi lúc nào cũng thấy bóng dáng của chúng nó. Không thấy rõ mặt mũi, thứ mặt mũi quắt queo lóp nhóp, thì cũng nghe thấy tiếng kêu chút chít đâu đó. Sau mới hiểu chúng cũng không nhiều lắm. Chỉ qua dăm ngày, tôi đã dọn sạch.
Đến lúc này, kho đồ hộp chỉ còn mấy hộp sữa, vài hộp pa-tê, bột đậu xanh và một ít gạo ngon để dành cho người ốm hay bị thương.
Thời gian này tôi hay nhớ những bữa ăn chị Hoàn đi tìm tôi về, trên mâm có đủ cá mú đình huỳnh. Tôi không phải là loại ăn tham, cũng không phải là loại hay đòi hỏi thức nọ thức kia. Ở đảo, không ai đòi hỏi vật chất nhiều đâu. Sống chịu đựng nhẫn nại nhất là lính đảo. Các anh đã phải dùng đến những củ chuối rừng trong những bữa ăn rồi. Có lẽ, trong loài tôi, tôi là đứa đầu tiên ăn đến loại thức ăn vừa chát vừa lõng bõng này. Thế mà ngày nào cũng có chiến trận. Đánh cả ban ngày, đánh cả ban đêm. Ban đêm, đèn dù sáng rực như ban ngày, thấy rõ từng ngọn cỏ. Nếu có tên chuột nào chạy ra, tôi sẽ chồm trúng ngay từ phút đầu.
Phải đánh nhau với cả máy bay và tàu chiến của giặc cùng lúc, nên các anh lính không có thì giờ để ý đến tôi nữa. Lúc nào cũng thấy họ la hét, nào hướng mười hai, hướng ba mươi tư, kinh độ, vĩ độ. Đó là những điểm cần theo giõi ở trên bầu trời và dưới mặt biển. Còn tôi, điểm tôi hay nhìn thấy là hình những con cá, hình những miếng thịt trên những cái hộp.
Ngày thứ mười, tính từ hôm tôi bị đói. Tôi đưa tay lên một hộp xem nó thế nào. Ấy là định xem hình con cá phía ngoài thôi. Nó còn không thèm động đậy, vẻ lạnh lùng, như đang nói:
- Tôi là của người ốm hay người bị thương thôi đấy.
Tôi nhìn mình. Không, tôi khoẻ mạnh.
Ngày thứ mười một. Tôi đưa tay lên, nó vẫn như thế. Tôi với sang một cái hộp bên cạnh đấy. Tôi sắp buột ra một câu than vãn “Tôi đói lắm rồi. Trong bụng chẳng có gì cả…”
Đột nhiên bên ngoài có tiếng lập cập bước chân các anh lính. Tôi quay ra, thấy hai anh lính khiêng một anh bị thương vào, mặt mũi lem nhem bụi đất và khói súng. Sống giữa những bom đạn, làm sao tránh khỏi điều ấy. Tôi chạy lại gần, anh bị thương được đặt lên một chiếc giường. Một anh chạy lại góc hầm, định cầm một cái hộp. Nhưng anh nằm trên giường nhìn theo, bảo:
- Mình bị nhẹ thôi, hẵng để dành.
- Thì cứ hớp một tí cho lại sức. Cậu bị choáng đấy, vì sức ép, mà cũng vì sức cậu yếu đi nhiều.
- Không. Để còn trường hợp khác nặng hơn. Tàu chiến của bọn nó vào nhiều, lâu mới có thuyền ra đảo.
- Hớp lấy một tí, còn lại vẫn để dành được cơ mà.
- Thôi các cậu ạ. Ra đi cho khỏi thiếu “số”.
“Số” là vị trí của các pháo thủ, thiếu một “số” sẽ khó khăn cho cả khẩu đội.  
Một anh xoa nhẹ lên mặt và trán anh bị thương. Rồi cả hai anh cùng đi ra. Bên ngoài lại có những tiếng nổ lớn, rung chuyển thật mạnh. Tôi thấy da mặt anh lính, chỗ mới được đồng đội lau qua quít lớp khói bụi, hơi tai tái, có đường gân xanh chạy giật giật. Tôi nép vào bên anh, vạt áo người lính khét lẹt. Mùi khét áo anh làm tôi quên đi vị cá, cái vị cá cách đây lâu lắm rồi.
Ngày thứ mười hai, mười ba gì đó, anh lính bị sức ép đã đứng lên, đi ra công sự. Ở nhà một mình, tôi đã có kinh nghiệm rồi, không đi vào góc hầm nữa. Tôi sợ mình sẽ tiện chân, tiện tay vớ một hộp, một hộp thôi, đập ra. Tôi đói quá rồi mà.
Trưa hôm đó, lại có một anh được đồng đội đưa vào hầm, cánh tay buộc băng trắng toát. Anh nằm, người mềm oặt, không nói năng, không cử động. Một lúc lâu sau, mắt anh từ từ mở ra. Thấy anh đã mở mắt được, các anh khác đỡ lo. Một anh chạy tới góc hầm để đồ hộp, vớ ngay một hộp, làm các việc cần thiết rất nhanh. Anh bị thương mím môi, lắc đầu, rồi khép mắt lại, ngủ lịm đi.
Buổi chiều, anh bị thương tỉnh lại. Lúc này chỉ còn một anh ở lại để chăm sóc người bị thương. Anh bắt đầu cho anh bị thương ăn. Sữa cứ trào ra hai bên mép anh ấy, trắng lắm. Anh đang bón sữa dịu dàng nói:
- Nữa nào, nào. Ăn cho chóng lại sức.
- Cậu ăn đi. Chắc cậu đói lắm.
Có lẽ người đau ốm ít thấy cái đói giày vò như người khoẻ mạnh. Tôi nghĩ thế. Nhưng anh lính khoẻ mạnh nói:
- Không. Bọn mình còn ăn được cơm.
Cơm đâu. Cháo củ chuối đấy chứ, hằng ngày tôi vẫn thấy.
- Mình chả muốn ăn đâu
- Không được. Không ăn thì cậu sẽ lả đi mất.
Sữa vẫn trào ra hai bên mép anh bị thương, trắng lắm.
- Anh em có ai bị gì không?
- Không. Cậu cứ nằm yên, đừng nghĩ ngợi, cho chóng khoẻ.
Im lặng. Một lúc sau, anh bị thương nói:
- Cậu ạ. Đang yên, cậu đem hoà vào bình toong hết cả đi, hoà loãng loãng cũng được. Rồi mang ra ngoài khẩu đội cho mỗi người hớp một tí.
- …
- Các cậu chiều mình, làm thế đi. Mình không sao đâu. Mình ngủ một lát.
Anh bị thương dùng cánh tay không bị băng kéo chăn. Anh kia giúp đồng đội kéo tấm chăn mỏng lên, che kín mặt, kín đầu. Tấm chăn rung rung khẽ. Người lính không bị thương đứng im, vẫn nhìn vào bạn, có hai giọt nước ứa ra nơi khoé mắt anh.
Tránh khỏi cái hộp sữa đã mở sẵn nắp để khỏi vô ý làm đổ mất, tôi đi ra phía trước cửa hầm. Dưới lòng khe rất nhiều cành cây cháy trụi. Nắng buổi chiều chiếu vào những ngọn cây cao, những vạt đá cao một màu vàng rực, như cháy.
- Buồm Nhỏ đâu nhỉ, Buồm Nhỏ…
Tiếng anh lính gọi, tôi định quay lại. Không được. Anh bị thương bảo anh hoà vào bình toong rồi mang ra khẩu đội cơ mà.
Tôi đi xa thêm cái cửa hầm.
*
                                             *      *

Chập tối, tôi về với các anh cho đỡ nhớ.
Anh lính bị thương đã tỉnh, nhìn tôi rất hiền. Anh nhắc đồng đội chú ý đến tôi. Mấy anh có vẻ ngượng vì đã có lúc không để tâm đến tôi. Một anh lấy cháo củ chuối cho tôi ăn. Chát quá, mặn quẹo cả lưỡi. Một anh lấy cái vỏ hộp sữa, rót nước vào, lắc lắc. Anh quay nhìn tôi, rồi lắc đầu và đi nhóm bếp.
- Hết nước ngọt đến nơi rồi.
- Ừ, hơn một tháng không có tiếp tế.
Ánh lửa bếp lom đom hắt lên những khuôn mặt lính gầy hốc hác.
Mình đổ hơi nhiều nước. Phải cô đặc lại cho Buồm Nhỏ. Trông Buồm Nhỏ gầy thế kia.
Tôi rân rấn nước mắt, cắn cắn móng tay.
Tôi ăn sạch nhẵn chút sữa trong chiếc vỏ đồ hộp. Thỉnh thoảng, theo thói quen, lưỡi tôi táp khẽ vào bàn tay anh lính ngồi bên. Bàn tay nhiều ngày không rửa nước ngọt, ram ráp, khen khét.
Anh bị thương nhìn tôi suốt buổi ăn. Rồi anh bảo đồng đội cho tôi đến với anh. Tôi lại giường anh. Anh kéo tôi nằm xuống, ngay bên cánh tay buộc băng .
- Xoa xoa cho tớ một tí nào, Buồm Nhỏ.
Anh nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt dịu dàng. Tôi đưa tay sờ lên cánh tay đau của anh. Anh cười nho nhỏ, hiền hậu, rồi đột nhiên ngoái nhìn ra phía mấy anh khác:
- Các cậu thấy không, ở Hòn Mê này có một người lính như thê này đây.
Bàn tay không đau của anh áp lên lưng tôi, kéo tôi sát thêm chút nữa vào bên lòng anh:
Thằng Mỹ mà biết Buồm Nhỏ sống ở đây mấy năm nay vẫn yên lành, chúng phải điên lên mất. Đánh như cuồng như dại cả tháng vào đảo này, mà có làm gì được Buồm Nhỏ đâu, Buồm Nhỏ nhỉ.
Mấy người lính nhìn tôi, có anh nhoẻn cười. Bên ngoài đã yên ắng.
Hôm sau, vẫn diễn ra những cuộc chiến đấu ác liệt. Bốn ngày liền tiếp theo, dù đói thắt ruột, nhưng tôi vẫn vững lòng. Một buổi đêm, thuyền từ đất liền đã ra đảo. Không thể tả được nỗi vui mừng của chúng tôi khi tới gềnh Chàng Mong – Nàng Đợi đón thuyền.
Một tháng sau tôi được đến kinh đô.





9.   Kinh đô - Chiến đấu bên bồn hoa


Kinh đô ở đây không phải là thứ kinh đô mà các bạn hay đọc sách, hay xem phim, ảnh vẫn thấy. Khắp cả quần đảo, mọi người lính đêu gọi khu tháp đài quan sát là kinh đô xứ Mê.
Chỉ có một cái tháp cao, để từ đó lính ta quan sát mọi phía, và một căn nhà hầm. Căn nhà hầm nằm lút vào chân núi. Khi tôi bước vào, đã thấy hoa bày trên mấy dãy bàn, thật đẹp. Hoa hải đường, mẫu đơn và mào gà, chắc đem từ cao điểm Lô Cốt về. Lại cả hoa mua, hoa sim có lẽ lính ta hái ở bên gềnh Chàng Mong – Nàng Đợi. Hôm nay, mỗi đơn vị đều cử các đại biểu về kinh đô. Tôi đi trong đoàn Đá Bạc. Nghe nói, những anh lính không đến dự cũng có tiêu chuẩn của mình, ngày hội cơ mà. Giờ này các anh ở đơn vị đang ăn mừng ngay bên mâm pháo đây.
Có một số phóng viên báo chí và đài phát thanh ra đảo. Tôi nghe các anh lính kháo nhau như vậy. Có một người chĩa ống kính máy ảnh lên vách núi, phía trên mái nhà hầm. Trên đó, có một băng vải đỏ với một dòng chữ vàng dài suốt băng vải. Mỗi người đến đây đều nhìn lên đó, và hoặc đọc lẩm nhẩm, hoặc đọc thành tiếng:
Đảo Hòn Mê đón nhận danh hiệu anh hùng.
Tôi thấy đảo trưởng và mọi người hôm nay đều mặc đẹp. Quần áo mới, trên cổ áo đính hai lá cờ vuông vuông và cứng, trên vai áo thì cờ dài hơn, có những ngôi sao. Tôi đưa tay sờ vào những lá cờ trên cổ áo các anh lính. Mấy anh bàn tán:
- Buồm Nhỏ không có quân hàm, quân hiệu à?
- Ồ, phải làm cho Buồm Nhỏ quân hàm ngay mới được.
- Trung sĩ nhé, trung sĩ!
Một anh lấy hai cánh hoa mào gà đính lên vai tôi. Mọi người đều khen tôi đeo quân hàm trông rất đẹp.
- Trung sĩ Buồm Nhỏ!
          Tiếng cười vang khắp cả kinh đô. Mọi người vây quanh tôi. Ai cũng nói một câu chúc vui vẻ. Bỗng đám đông quanh tôi rẽ ra, một anh len vào, đến trước mặt tôi. Anh Ngân! Tôi choàng ôm lấy bàn tay anh. Anh giành lấy tôi từ tay các anh lính khác. Ôi, lâu quá rồi nhỉ!
          Đảo trưởng đến, bảo “tất cả lắng nghe nhé”. Anh nói về tôi từ làng biển ra đảo làm lính. Rồi anh bắt đầu đọc lá thư chị Hoàn mới gửi ra…
          Chị Hoàn chắc là nhớ tôi lắm. Vẫn thỉnh thoảng ra cửa nhìn hướng ra đảo xem có thấy tôi không đấy. Là thấy trong tưởng tượng thôi. Lại còn nói xin phép về với chị vài hôm. Tôi cũng nhớ chị nhiều, chị biết không, nhớ cái bến bãi làng biển nơi chị vẫy khăn quàng đỏ tiễn tôi…
          Đảo trưởng ngừng đọc, tay giơ cao lá thư lên vẫy vẫy. Tiếng vỗ tay hoan hô của lính ta vang dậy.
- Cho Buồm Nhỏ đi phép, ngay ngày mai.
          - Đảo ta sẽ gửi thư cho Hoàn, trung sĩ Buồm Nhỏ mang về.
          “Ôi!... Tôi vui bừng bừng cả người”
          Anh Ngân lúc nào cũng giữ tôi ở bên. Tôi cũng muốn được ở bên anh sau bao ngày xa nhau. Tôi cọ cọ đầu vào ngực anh Ngân, tỏ ý muốn nhắc nhớ buổi đầu tôi mới ra đảo. Chắc anh cũng đang nhớ lại, ánh mắt anh nhìn tôi thật cảm động. Những anh lính khác thỉnh thoảng lại ghé sang phía tôi, trò chuyện. Các anh trao đổi với nhau bao nhiêu chuyện. Có anh bảo rằng, bọn xâm lược tỏ vẻ muốn dùng mưa bom, bão đạn để dìm hòn đảo này chìm xuống biển, hoặc là đánh cho trơ trụi, trọc lốc đi. Bọn nó quả là ngốc. Chúng tôi đang vui cười ở đây. Tiếng cười của lính đảo vang dội vào vách đá, vọng cả ra biển lớn. Tôi vô cùng vui, vui đến ngây ngất.

                                                           *
                                                       *      *

          Tôi đang nằm trên tay anh Ngân, trên đường đi về cao điểm Lô Cốt. Lối đường dẫn qua những vạt đất rộng có nhiều bụi cây dại; tiếp đó men giữa hai vách núi, lúc lên, lúc xuống. Nằm bồng bềnh trên tay anh, khiến tôi nhớ lại buổi đầu lên đảo tôi ngồi trên chiếc mũ, anh ôm trước ngực. Chính hôm đó anh đã đặt tên cho tôi, cái tên nay mọi người đều đã biết. Lúc lúc anh lại áp má xuống lưng tôi, nói khẽ khàng:
- Trung sĩ ơi. Vui không nào, trung sĩ…
          Tôi cọ cọ mái đầu vào anh.
- Buồm Nhỏ, hoãn chuyến đi phép rồi nhé. Có tin báo bão rồi, không có thuyền đưa người đi phép vào đất liền đâu. Ở lại tiếp tục nhiệm vụ vậy. Không buồn chứ? Ai lại buồn trong ngày này, trung sĩ nhỉ. Buồm Nhỏ được phong hàm trung sĩ này. Người ta được ra cao đỉêm Lô Cốt để chiến đấu rồi này. Nói mãi cấp trên mới mới đồng ý để Buồm Nhỏ cùng về cao điểm Lô Cốt với người ta luôn đấy.
          Thì ra là vậy. Qua khoảng hở giữa hai vạt núi trước mặt, thấy biển căng vồng lên và xám ngắt. Chúng tôi đi thật nhanh về Lô Cốt.
          Đến nửa đêm thì bão gió quật ầm ào quanh chân đảo. Cho đến chiều hôm sau thì biển lại xanh biếc và trời trong vắt. Dường như chỉ đợi có vậy, máy bay Mỹ lại ào ạt kéo tới. Mấy ngày liên tiếp, Lô Cốt rung chuyển trong cơn lốc bụi và khói lửa.
          Đôi lúc, qua khoảng hở giữa những vạt khói, thấy màu trời xanh ngắt. Lũ máy bay tầng cao, từng đàn trắng nhấp nháy. Lũ tầm thấp đen trũi, từ nhiều hướng bổ nhào xuống. Không chỉ riêng cao điểm Lô Cốt, khắp cả đảo đang ở trong một trận đánh lớn chưa từng có. Đá đảo rung bần bật dưới chân pháo. Chân lính ta như cắm chặt xuống đất đảo.
Bồn hoa đỏ trước lô-cốt giận dữ, rung lên từng đợt. Khẩu đội trưởng hét vang: “Bắn…”. Và, cũng đã có tiếng hò reo vang dội:
- Cháy rồi! Nó cháy... rồi…
          Trong hai ngày, hai mươi mốt và hai mươi hai tháng chín này, hai máy bay của không lực Mỹ đã phải đền tội.
Có chừng mươi lăm phút ngơi tiếng súng, mấy anh lính ngả lưng tạm xuống nền đất. Trong bóng đêm tối om, tôi đi lau tay, lau cổ các anh. Mùi vị khói đạn thấm vào tôi bừng bừng.
- Trung sĩ, vẫn vững chứ?
- Buồm Nhỏ, kỳ này lại đánh lớn, biết không?
Tôi biết chứ. Ở đảo, những đợt đánh lớn là chuyện thường tình.
- Kẻ thù của trung sĩ và kẻ thù của chúng tôi là cùng một giuộc, phải không?
Tất nhiên là thế rồi. Đừng nghĩ đảo đang ắng lặng. Không, tôi vẫn biết có những tiếng động gian giảo ở đâu đó. Tiếng loạt xoạt, lột sột ở trong ngách hầm, Tôi lao tới.
- Lút chút.
Nó ở dưới một hòm gỗ và kêu thật khó chịu.
          “Tao khua cho mày một đòn đây”. Tôi quyết định thế. Lâu nay tôi đã biết sử dụng cái đuôi như một vũ khí, có thể so sánh với miếng “thoa côn” của một só võ sĩ giàu kinh nghiệm chinh chiến, như anh Ngân thường nói. Tôi khua ngay một đòn. Nó chạy tọt sang phía bên kia để tránh đường côn của tôi. Pháo sáng cháy rực lên, soi rõ các ngóc ngách. Các anh lính rầm rập trở về vị trí chiến đấu. Tôi bay vút qua chiếc hòm gỗ rất lớn. Nó vẫn tuột khỏi tay tôi. Tôi lao tiếp, và nó đã không tránh được đòn thứ hai này. Tôi quẳng xác nó vào ngách hầm, để dồn lại, rồi tính kết quả sau.
          Tôi quẳng xác thằng đó vào xó hầm khá mạnh. Ai dè, còn một đứa nữa đang trong đó, nó khiếp đảm la lên. Bọn giặc là thế đấy, bị choảng là rối loạn đội hình ngay. Tôi lại dùng miếng côn, nó hốt hoảng chạy tót ra phía ngoài. Tôi bật mạnh, quăng mình theo.
- Chút chít… chút chít…
          “Thoát đi đâu!”, tôi nghĩ vậy. Đã ra bên ngoài cửa hầm. Chân tôi vướng phải một hòn đá. Nó chạy xa thêm một quãng nữa. Đừng hòng, tôi lấy hết sức mình bật mạnh, chồm lên nó. Tôi cắm mạnh đôi vuốt, cắm mạnh cả nanh nữa.
Bỗng, ầm… rung chuyển, nhưng tôi vẫn ghì chặt, không để kẻ thù chạy thoát, mặc dù tất cả đã mịt mù trước mắt tôi…
…Bằng một linh cảm đặc biệt, tôi biết rằng anh Ngân vừa ngồi xuống, đưa tay lật tảng đá đang đè lên chân tôi. Tôi thấy chung quang im lặng. Chỉ nghe tiếng người, tiếng người lính êm dịu khác thường:
- Buồm Nhỏ đây rồi! Các cậu ơi.
- Đâu?... Ôi! Vẫn còn quặp chặt kẻ thù…
Bàn tay nào đầy tình thương mến áp nhẹ lên tôi.
- Bị vào chân rồi.
- Giập… gần đứt. Thế mà không rên!
Không. Ai lại rên la. Tôi chỉ thấy tê tê dưới chân, tê tê khắp toàn thân.






10. Cây sang sang 


Cho đến lúc tôi có được cảm giác rõ ràng những gì trên thân thể mình và nhận biết được sự sống chung quanh, thì hai ngày đã trôi qua. Hai ngày ấy, cuộc chiến thật lớn vẫn tiếp diễn trên toàn đảo.
Tôi không rõ mình được đưa đến nhà hầm quân y bằng cách nào. Bây giờ tôi chỉ thấy toàn thân mỏi rã rời. Vòm nhà hầm quân y căng ni-lông để che bụi đất. Mùi thuốc và mùi cồn sát trùng sực nức. Bác sĩ quân y đeo khẩu trang ngồi bên tôi. Rất yên ổn. Tôi muốn trở mình cho khỏi mỏi tức. Chỗ bàn chân tôi dường như trống không. Tôi cựa mình, chỗ trống không ấy đau nhói. Chỗ ấy như có ngọn lửa đang cháy rần rật.
- Buồm Nhỏ…  
Bác sĩ gọi nhỏ tên tôi và nhè nhẹ đặt tay lên chân tôi, như muốn làm cho ngọn lửa dịu bớt đi.
Dịu đi thật, dịu đi được một tí thôi, rồi lại bùng lên đốt cháy.
- Buồn Nhỏ ơi, đừng cựa mạnh nhé.
Lúc đó, một người từ phía góc nhà vừa nói vừa đi tới bên tôi.
- Thức dậy rồi à? Đau lắm đấy. Mình xem nào.
Anh tiến lại gần hơn, cúi sát xuống tôi:
- Thế là mất một chân, tội quá!...
Tôi nhìn, anh là lính và cũng là một thầy thốc. Anh nói với tôi:
- Bọn Mỹ cướp mất một chân rồi đấy. Bọn nó thật tàn ác.
Cả hai anh nhìn tôi một lúc rõ lâu.
- Tiêm thuốc trợ lực. Có loại nào tốt thì đem dùng cho Buồm Nhỏ đi.
Hôm sau, tôi tỉnh táo hoàn toàn. Bác sĩ bảo tôi trở mình được rồi. Chỗ chân, vết cưa rất tốt, cầm máu ngay. Tôi trở mình. Lắng nghe, từ bên ngoài vẫn vọng về những âm thanh vang động của cuộc chiến đấu. Căn nhà hầm quân y lúc lúc lại chuyển rùng rừng.
Trong nhà hầm, có một anh lính gọi tôi:
- Buồm Nhỏ ơi, tỉnh rồi à?
          Anh nằm trên chiếc giường tận góc trong. Tôi cố nhổm dậy để nhìn anh lính, nhưng tay chân còn run lắm.
- Buồm Nhỏ bị nặng hơn tôi đấy. Thôi, nằm xuống mà nghỉ nhé.
          Thêm một ngày nữa trôi qua. Tôi tỉnh dậy đúng lúc bên ngoài cửa có tiếng người bước lập cập vội vã, và tiếng người nói những câu gì hệ trọng lắm. Tôi muốn đứng lên để nhìn ra. Dù thiếu một chân, tôi đã đứng lên được. Lại một người lính nữa được đưa vào hầm quân y. Mắt tôi như bị hút vào cái cáng. Người nằm trên cáng kín mít trong chăn và không động đậy.
- Đặt nhẹ lên giường, nào, thật nhẹ.
          - Ai đấy?
Nghe mấy anh nói với nhau, tự dưng tim tôi đập rất mạnh.
- Ai đấy hở, các ông?
- Ngân!
Chao ôi, anh Ngân! Cái chăn vẫn phủ kín mít, kín quá.
          - Ngân quản lý à?
          - Ừ... À không, về làm lính chiến đấu ở Lô Cốt hơn mười ngày nay rồi. Lính pháo đấy.
          - Vẫn chưa tỉnh.
          Đến chiều, tôi lại đứng lên lần nữa để nhìn sang giường anh Ngân. Đứng nhìn thật lâu, quên cả cơn đau dưới chân mình. Bác sĩ thấy vậy, liền đưa tôi sang giường anh Ngân. Tôi run run nép vào bên anh. Anh thở nhẹ, quá nhẹ. Bác sĩ nói:
- Căng quá, trường hợp Ngân khó lắm…
          Một anh khác nói:
- Cậu ấy quê ở đâu nhỉ? Bị vào đầu, chắc chả nhớ nổi.
          - Có khi chả nói được câu nào nữa đâu.
          Tôi muốn nói quá. Muốn nói quê anh ở miền núi. Tôi nhớ lại hồi mới ra đảo, tôi đến ở với anh. Trước cửa nhà có cây sang sang. Anh kể cho tôi nghe những chuyện thật đẹp về miền quê anh. Miền quê anh có lẽ đang dần xa anh thêm, xa thêm mãi…
          Lại một ngày nữa trôi qua trong lo lắng của tôi. Tôi khoẻ hơn chút ít. Anh thì lại càng lặng im. Mặt anh sau lớp băng trắng, đôi chỗ máu thấm đỏ. Có mấy anh ở Lô Cốt ghé thăm bọn tôi.
          Mọi người nhìn anh Ngân bằng ánh mắt đầy lo buồn. Tôi cũng nhìn anh. Khuôn mặt thân yêu chỉ là những cấm đỏ, đỏ ghê lắm.
          Đột nhiên, những chấm đỏ rung rung, rung thành tiếng khẽ khàng:
- Các cậu ơi… Có sao không?
          Mọi người nhìn vào những chấm đỏ.
- Bọn mình không sao. Hạ được một thằng nữa cho cậu, Ngân ạ.
- Ngân ơi! Ngân…!
Những chấm đỏ. Tôi và mọi người nhìn không chớp vào những chấm đỏ. Đỏ ghê lắm!...
Mọi người ngả mũ. Những cặp mắt muốn nói một điều gì với khuôn mặt yêu quý. Khuôn mặt, là những chấm đỏ đầy linh hồn kia.
Khắp cả đảo im ắng. Chỉ có nắng và gió bao la trên bầu trời xứ đảo.
Chiều hôm ấy, những người lính Hòn Mê đưa anh Ngân đi. Tôi cố bám vào anh, bám rất chặt. Một anh đặt tôi xuống đất. Đến lúc ấy anh Ngân còn làm được một điều kỳ diệu: làm cho tôi đi được! Tôi muốn đi theo anh, nên đi ra cửa hầm, để nhìn theo anh được nhiều hơn, Ngay bên cửa hầm quân y cũng có cây sang sang. Mùa thu, lại đúng cữ mùa thu, cây sang sang có những lá đỏ lấp lánh, những lá trên cao như đỏ thấm vào nền trời xanh. Khắp đảo này, đúng rồi, khắp đảo chỗ nào cũng có cây sang sang. Loài cây gỗ rắn rỏi có thể vững vàng trước bão giông. Tôi nhìn theo anh Ngân, tựa vào cây, nhìn theo. Cây sang sang trong nắng và gió mừa thu. Những chấm đỏ thắm trong bóng mát, đỏ ngời ngời dưới ánh nắng mặt trời. Tôi nhìn cây, rồi nhìn theo anh, lại nhìn cây, thấy cây thì thào trên đầu. Tiêng cây sẽ sàng như gió đưa ra:
- Cây không hề khóc bao giờ…
          “Tôi không khóc!”
          Tôi còn nhìn theo anh Ngân, nhìn sắp ướt nhoè mắt. Tôi tựa vào cây. Để được cây đỡ lấy trong cơn yếu mệt. Và để không khóc. Trên đầu tôi là vầng lá cây sang sang to lớn.
*
                                                        *     *

          Cho đến lúc tôi ra viện thì đã là mùa đông.
          Tôi lại trở về cao điểm Lô Cốt. Ở Lô Cốt, tôi cảm thấy được gần anh Ngân hơn. Các anh ở đây có ý bồi dưỡng cho tôi. Những anh lính ở mấy đơn vị xa thỉnh thoảng cũng gửi cho tôi quà. Nhưng chả thể làm dịu được nỗi buồn của tôi. Đi lại thơ thẩn và nhìn loanh quanh, tôi cứ tui tủi. Các anh lại càng thương hơn, chăm tôi ăn uống rất chu đáo. Tôi béo lên nhiều so với cả trước khi bị thương.
Mùa đông này đối với tôi quá nặng nề. Một thời gian dài không hoạt động làm cho tôi cảm thấy mình thừa trong cuộc sống trên đảo. Dịp này, có một anh lính mới được bổ sung về Lô Cốt. Anh rất trẻ, ngay buổi đầu đã đến bắt tay tôi.
- Buồm Nhỏ đây à?
Tôi nhìn anh, quần áo mới tinh tươm.
- Trung sĩ phải không? Quân hàm, quân hiệu đâu?
          Anh chả hiểu gì cả, lính mới có khác. Cứ trông mọi người xem, đánh nhau với giặc rách cả áo ra ấy chứ. Ai lại lúc nào cũng đeo quân hàm, quân hiệu bao giờ. Trách nhiệm ở trong lòng cơ, anh lính tò te ạ. Tôi muốn nói với anh những ý nghĩ ấy, nhưng thôi, rồi đánh đấm vài lần thì anh sẽ biết.
          Anh lấy bánh mật(*) ra cho tôi ăn. Mới ở đất liền ra có khác, còn có thứ bánh mua ở chợ làng, gói lá chuối hẳn hoi. Anh mời quá xởi lởi:
-Trung sĩ ăn một miếng cho vui.
……………..
(*): Loại bánh làm bằng bột nếp trộn với mật mía.
Tôi nể tình, chấm lưỡi qua loa miếng bánh cho anh vui lòng. Rồi tôi lặng lẽ đi thơ thẩn. Lúc tôi quay trở lại, thấy anh lính mới nhìn theo từng bước chân của tôi. Theo từng bước tôi đi, anh nhăn mặt xuýt xoa:
- Đau quá… Đau quá…
          Không, tôi có đau chân đâu. Tôi chỉ thấy bức bối trong lòng vì đang phải chập chững tập đi từng bước như ngày còn bé tẹo. Tôi luôn có cảm giác là anh lính mới lúc nào cũng nhìn mình. Đang đứng trên mâm pháo, tôi quay lại, thấy ánh mắt ái ngại của anh. Lập tức, tôi lao mình xuống. Ôi! Lâu lắm tôi mới lại tung mình lên không trung. Chung chiêng quá, và, tôi lăn tròn trên nền đất. Anh lính mới thốt kêu lên:
          - Buồm Nhỏ!
          Tôi gượng lên ngay, và chỉ muốn tránh ánh mắt xót thương của anh.
          Tôi đi ra nằm ở mé sau nhà, quên cả đau. Phải tập từ đầu thôi, tôi phải tập. Tôi nhớ lại những bài học đầu tiên chị Hoàn dạy cho. Dùng đôi vuốt vồ chụp lấy và dùng cả nanh, như hồi cướp quả bóng xanh đỏ ấy. Tôi thấy phải bắt đầu luyện tập ngay. Những buổi sáng, những buổi trưa, và cả những buổi chiều, tôi mải mê luyện tập. Không được như xưa nữa, bây giờ tôi cụt một chân rồi. Hễ từ trên cao hạ xuống là ngã qụy. Đây là thử thách lớn nhất đối với tôi. Chưa quen, rồi sẽ quen. Phải cố mà tập.
Anh lính mới vẫn rình xem tôi luyện tập mà tôi không biết. Cho đến một hôm, thấy anh đem một nắm cơm ra rải ở ngách hầm trước mặt tôi. Rải cơm xong, anh nhẹ nhàng bỏ đi. Một lúc sau, tôi thấy một thằng chuột mò ra chỗ mấy hạt cơm. Tiếng anh lính nói rất khẽ đằng sau tôi:
- “F4H” nó đến đấy Buồm Nhỏ nhé.
          Tôi phóng ngay xuống
          Nhưng, tôi chỉ đè được vuốt lên kẻ thù, chưa kịp dùng đến nanh thì thấy trệt cả nửa người sau xuống đất. Tôi nghiêng hẳn người sang một bên. Thằng F chuột đã nằm trong tay rồi, lại vùng thoát mất. Tôi không kịp choàng dậy đuổi theo nữa, đành buồn bực nhìn theo vệt bụi nó để lại.
- Buồm Nhỏ, đau không?
          “Ồ, chưa quen đấy thôi…”
          Rất nhiều cánh tay đưa lại phía tôi. Thì ra các anh lính đều để ý đến tôi. Tôi càng thấy khổ tâm. Né tránh mọi sự an ủi của các anh, tôi lặng lẽ bỏ đi. Có lẽ các anh cũng hiểu tâm trạng tôi nên rất nhiều ánh mắt nhìn theo dáng đi khập khiễng của tôi. Anh lính mới chạy theo tôi, nói:
- Rồi dần dần sẽ thành công thôi mà…
          Tôi đặt nhẹ bàn tay mình lên bàn tay anh.
          Hai ngày sau, anh lính lại hiệp đồng tác chiến với tôi. Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Sẽ phải cùng một lúc tung ra cả ba đòn. Khi lao vào kẻ thù, hai đòn của vuốt và một đòn của nanh phải cùng khép chặt ngay. Tôi đã tiến công đúng như vậy. Nó vừa táp cái mõm vào chỗ cơm anh lính rải sẵn, tôi nhào tới ngay, chính xác trong mọi động tác. Người tôi trệt xuống đất, ngã nghiêng ra, nhưng kẻ thù đã bị tôi thít chặt rồi. Nó la hét, giãy giụa, và chung quanh tôi đã vang lên tiếng reo mừng.
- Buồm Nhỏ đã hạ được “F105”!
Anh lính mới đưa tôi đi gặp khắp lượt đồng đội, hả hê giới thiệu chiến công của tôi. Anh mô tả tỉ mỉ lại những đòn đánh của tôi trong một đợt tấn công vừa rồi. Sau đó, anh công kênh tôi lên, đưa ra một vạt đá có nắng trải, để liên hoan bằng mẩu bánh mật cuối cùng, lớp lá chuối gói bên ngoài đã héo khô.
Tôi thấy bánh mật thật ngon. Có nắng ấm nữa, nên càng ngon. Mùa xuân chớm đến rồi.







11. Lại thuận buồm xuôi gió -
       Thằng bạn mới


Tin tôi chiến thắng “F105” đần dần được khắp đảo, rồi khắp cả quần đảo biết. Quà từ nhiều nơi liên tiếp gửi về cho tôi. Và, các đơn vị cũng báo cáo với đảo trưởng rằng, nhân thời gian Buồm Nhỏ yếu mệt, bọn chuột đã sinh sôi khá nhiều và phá phách ghê lắm.
Thế là tôi lại được lệnh lên đường. Anh lính mới tiễn tôi đến tận chân dốc, trao tôi cho Đá Bạc, chúc một câu:
- Thuận buồm xuôi gió nhé!
          Tôi tạm biệt anh. Gió mùa xuân dịu dàng thổi trên khắp xứ đảo.
          Ở Đá Bạc, các anh lính rất thích lối đánh mới của tôi. Mấy hôm sau, trên tờ báo tường của Đá Bạc có hình vẽ tôi trong lúc tiến công kẻ thù với dòng phụ đề: “Buồm Nhỏ với ba đòn phối hợp trong mỗi đợt tấn công!”. Các anh còn bàn tán, cho rằng tôi là người duy hất trong loài tôi có cách đánh như vậy. Vì tôi thiếu một chân đấy. Khi tôi chuẩn bị chuyển tới Khe Sâu, những người lính Đá Bạc đã gói cho tôi hai con cá rán hẳn hoi, đem theo để ăn đường.
          Ở Khe Sâu, tôi cũng được đưa lên mặt báo của đơn vị. Còn tới ghềnh Chàng Mong – Nàng Đợi, tôi có hơi bị lúng túng trong trận đầu. Khi tôi nhào tới tấn công thằng chuột đầu tiên, nó giãy mạnh và thoát được. Các anh lính nhìn tôi lăn chiêng từ quả bí ngô xuống đất, nói vẻ ái ngại:
          - Tại vì quả bí ngô nó chao đi đấy.
          Các anh nói đúng. Ngay chiều hôm đó tôi đã chiến thắng, được các anh vỗ tay như pháo rang.
          Lại một cuộc tiễn đưa nữa. Gió thổi thênh thang trên mặt biển mùa xuân, êm ả lấp lánh. Ngồi trên thuyền vẫy vẫy tay chào các anh lính trên bờ, tôi đi sang Hòn Dơi. Các anh vẫn đứng trông theo khi  thuyền tôi đã ra xa. Nhìn lên, thấy những cây sang sang trên đảo Mê, tôi nhớ anh Ngân vô cùng…
          Chuyến đi lần lượt tới các đảo nhỏ đầy hào hứng này kéo dài hơn hai tháng. Tôi trở về Hải Đăng vào một buổi chiều báo động toàn đảo. Đêm ấy, ngọn đèn biển vẫn sáng trên tháp cao. Tôi làm việc của mình một cách  nhanh, gọn. Thêm hai ngày nữa thì đã sạch bóng bọn chuột ở Hả Đăng. Những nòng súng ở các cao điểm khác lại giương cao. Ngồi trên tháp đèn, tôi nhìn khá rõ một số cao điểm trên đảo. Nhìn về Lô Cốt, thấy vạt hoa đã nở đầy, lay lay trong gió. Thế là mùa hạ rồi.
          Hai anh ở Hải Đăng đang kháo nhau về tin nhà. Một anh, rồi cả anh kia nữa, đi lại chỗ tôi.
- Buồm Nhỏ nhớ nhà à?
          - Đã muốn về phép chưa? Hay lại muốn về Lô Cốt?
          Các anh ngồi xuống bên tôi, mỗi người một bên. Chúng tôi nhìn về Lô Cốt. Cả đảo lớn Hòn Mê là một vùng đồi núi với những vùng cao, thấp khác nhau, vùng xanh thẫm, vùng xanh nhạt. Có những chỗ đá đảo lở lói vì bom đạn, trắng loá. Có những vạt cây bị bom đốt cháy, nhiều thân cây đen đúa chĩa lên trời. Bầu trời xanh bao la. Gió từ đại dương thổi qua đảo đá này và dào dạt xuôi về phía đất liền.

                                                           *
                                                       *      *

          Tôi định đến chiều thì rời Hải Đăng để về Lô Cốt. Nhưng buổi chiều trời đổ mưa giông. Về đêm thì mưa còn lớn hơn, gió quật mạnh gần như bão.
          Hai anh ở Hải Đăng thức rất khuya, nên thường dậy muộn. Tôi thức dậy trước, buổi sớm mai trong tĩnh đến mức không nghe tiếng động gì ngoài hơi thở của mình.  Dường như nước biển đùa nghịch suốt đêm, giờ nằm ắng lặng dưới chân đảo. Tôi đi lững thững ra đến bờ đá, ló đầu nhìn xuống biển. Và tôi nhìn thấy một thằng khỉ đang ở dưới nước, nó đang kêu những tiếng nho nhỏ, yếu ớt, run rẩy. Tôi lần lần đi xuống dốc đá. Đôi khi vấp, chân tôi làm một hòn đá lăn cộc cộc rồi rơi tòm xuống biển. Nước bắn toé lên, thằng khỉ đáp lại bằng một tiếng kêu nhỏ đầy sợ hãi.
          Tới mép nước, tôi thấy thằng khỉ còn cách bờ biển một quãng ngắn. Nó víu bám trên một cành cây mục. Cành cây cứ dập dềnh khiến nó luôn phải loay hoay, ướt lướt thướt. Tôi gọi với ra:
- Này!
          - Ché, ché…
Nó rên, chắc là sợ hãi đấy thôi, tôi ngĩ vậy, rồi bảo nó:
- Đừng lộn tùng phèo thế kia nữa, ướt thêm đấy.
          Nó vẫn rên và vẫn lộn tùng phèo. Khổ thật, chỗ đít bị tôi đá ngày trước vẫn còn đỏ thế kia. Dưới biển chắc là xót lắm. Tôi bảo cố mà bơi vào, nhưng nó vẫn cứ loay hoay một chỗ.
          Không còn cách nào khác, tôi chạy lên nhà để gọi hai anh Hải Đăng. Vừa lúc hai anh đang đi tìm tôi. Tôi liền kéo tay các anh, đi xuống dốc ngay. Đến mép nước, họ thực sự ngạc nhiên:
- Ô, khỉ. Con khỉ con, sao thế này?
          - À, chắc đêm qua cu cậu đang ngủ trên một cành cây, bị gió tạt rơi xuống biển, rồi giạt đến đây. May mà còn biết bám vào một cành cây.
Nói với nhau thế, rồi hai anh vớt khỉ con lên. Một anh bế nó, một anh bế tôi, đi lên nhà. Bước vào nhà, thấy nó có vẻ đỡ mệt tí chút. Các anh lấy cả khăn mặt lau cho nó. Tôi nhìn nó, ướt mèm và bé tí ấy. Tôi thấy thương thằng khỉ, nên cũng đưa tay ra lau lau cho nó. Hai anh Hải Đăng nhìn tôi chăm sóc nó, tủm tỉm cười. Thằng khỉ đã bớt sợ, nhưng vẫn còn run lẩy bẩy. Các anh đưa nó lên giường, đắp chăn ngang ngực nó. Lúc sau, nó ngủ thiếp đi như một đứa bé tí xíu.
Buổi chiều, khỉ con đã khoẻ hẳn và bắt đầu muốn chơi với tôi. Nó còn định lấy tay lau người tôi, làm như tôi bị ướt ấy. Các anh Hải Đăng cười phá lên:
- Buồm Nhỏ kiếm được bạn rồi đấy. Hay quá!
“Tôi thấy cũng hay”.
          Lúc này trông con khỉ thật hiền lành. Tôi chơi với nó một lúc lâu. Trong khi ấy, hai anh Hải Đăng vẫn bàn tán.
- Ta giữ nó lại đây cho vui vậy.
          - Phải có kế hoạch tập tành cho nó, nó mới ngoan.
          - Buồm Nhỏ, để người bạn này lại cho bọn tớ nhé. Có các bạn, đảo Mê này vui thêm bao nhiêu.
          “Vâng. Tốt thôi”.
Nắng đẹp rồi, tôi phải rời Hải Đăng. Hai anh và khỉ con đưa tiễn tôi xuống tận chân tháp đèn. Tôi về cao điểm Lô Cốt.







12. Gặp lại ông -  
      Chuẩn bị đi phép


Đến Lô Cốt, anh lính mới chạy ra đón tôi.
- Trung sĩ Buồm Nhỏ đã về đến đơn vị rồi!
          Tôi đưa tay cho anh bắt. Bàn tay đã rám nắng gió và nước da anh có phần cứng cỏi hơn một chút. Nhưng anh vẫn còn mới nguyên tò te như thế. Vì anh chưa qua chiến trận đấy thôi.
          Không phải đợi lâu lắm nữa. Ngay chiều hôm đó khói lửa lại bùng bùng khắp đảo, liên tiếp mấy ngày liền. Tôi thì đã quen với cảnh này rổi, nhưng thấy cần quan sát xem anh lính mới vào trận thế nào. Anh tiếp đạn rất hăng, nhưng còn hơi vất vả, lật đật do vẫn có nhiều động tác thừa. Sau một vầng khói mù mịt vừa bùng lên, tôi nghe tiếng khẩu đội trưởng hạ lệnh:
- Số hai bị choáng. Tiếp đạn lên vị trí số hai.
          - Có số hai!
          Tôi nghĩ về anh lính mới đang bước vào thử thách thực sự của người lính. Những tiếng nổ rung chuyển, như là câu trả lời anh lính gửi tới tôi, “tớ đây, tớ đây…”
          Buổi trưa, tạm ngừng bắn khi máy bay đã đi xa. Anh lính mới vào chỗ tôi, đưa tay cho tôi:
- Hôm nay tớ vào số hai tốt rồi đấy nhé.
          Tôi bắt tay anh, bàn tay xám xịt khói và có phần chắc chắn. Cũng có thì giờ tán đôi ba chuyện. Nhưng, chúng nó lại kéo đến, lần này rất đông, từng đàn, từng lũ từ bốn phía nhào xuống Hòn Mê. Lệnh truyền khắp đảo cho biết chiến dịch này có thể còn kéo dài.
          Quả đúng thế. Với Hòn Mê, kỳ này có điều mới hơn là đất liền quyết không để đảo bị thiếu thốn. Điện trong đất liền báo ra rằng, đội thuyền gồm những người dũng cảm và thông thạo nhất về luồng lạch trên biển đã quyết tâm ra đảo trong mọi tình huống. Đến ngày thứ hai mươi của chiến dịch thì có tin là thuyền đất liền ra, đang hướng vào vịnh Hòn Đót. Thuyền đi như thế nào qua vòng bom đạn? Các thủy thủ vừa chèo lái vừa nã súng vào máy bay như thế nàò? Trong lúc các anh lính đảo hạ gục máy bay, bắn cháy tàu chiến Mỹ, thì đội thuyền tiếp tế có chiếc vỡ mạn, có chiếc rách cả buồm…
          Khi đó, lính Hòn Mê đã cạn nước uống. Bỗng những cổ họng đang khát cháy reo vang lên:
- Thuyền đã tới rồi!
          - Hoan hô đất liền!...
          - Lập thêm chiến công để chào đón đất liền.
          Suốt cả tiếng đồng hồ tôi cứ nhấp nhổm, muốn nhìn thấy đất liền ra đảo như thế nào. Và suốt cả tiếng đồng hồ ấy, vẫn không ngưng bom đạn.
Chập tối, tạm ngừng báo động. Nghe nói thuyền đất liền đã ghé vào bến tiếp tế cho đảo rồi. Đang rất nôn nóng, chợt được lệnh của đảo trưởng cho phép tôi xuống đón người thân từ đất liền ra thăm. Tôi mừng run cả người, theo một anh lính đi ngay.
Xuống đến nơi. Cảm động quá đi mất, là ông. Tôi choàng sang lòng ông. Ông đón lấy tôi, mừng quấn quít:
- Miu! Miu!...
          Ồi, ông vẫn còn gọi cái tên ngày bé của tôi! Bây giờ là Buồm Nhỏ đây mà, ông ơi. Tôi đưa cả người ra ôm lấy tay ông.
- Chân bị thương hồi nào thế này?
          Tay ông nắn nắn chỗ chân cụt của tôi.
- Ông có nghe nói… Thế này mà vẫn lập công, phải không?
          Thì ra ông đã biết rồi đấy. Tôi giụi mãi mái đầu mình vào tảng ngực ướt đẫm nước biển của ông. Ông nói:
- Máy bay Mỹ nó té ướt ông đấy.
          Tôi hiểu, chắc thuyền ông đang đi, bị bọn nó đến ném bom.
- Không hề gì đâu. Ướt tí tẹo ngoài da thôi. Ra được đảo lúc này mới yên tâm.
          Tôi lau lau vai ướt, ngực ướt cho ông. Ông cũng sờ nhè nhẹ dọc sống lưng tôi.
- Ừ, mập mạp thế này mà con Hoàn nó cứ lo gầy yếu.
          Nước trên vai, trên ngực ông mặn quá, tôi rất thương ông đã vất vả vì chúng tôi.
- Phải về nói cho con Hoàn biết để nó yên tâm. Nó bảo hay nằm mơ thấy con lúc nào cũng đi ngang dọc trên biển. Phải vậy không con?
          Ôi! Chị Hoàn cũng biết rồi đấy thôi.
- Lên chức trung sĩ rồi, phải không?
          Ông vừa vuốt ve tôi, vừa cười vui. Thế là ông biết hết cả rồi.
- Có muốn về phép không nào?
          Lúc ông hỏi câu ấy, có tiếng máy bay ầm ì phía chân trời. Ông cũng nghe thấy, nói:
- Đó, lại tiếng bọn nó.
          Tôi thì đã quen thứ tiếng đó rồi. Kệ nó thôi, ông ạ. Muốn nhìn về đất liền quá. Đất liền kìa, tôi nhìn về phía đất liền xa mờ trong hoàng hôn. Một hoàng hôn mùa hạ với ráng chiều hừng lên màu da cam lộng lẫy.
          Ông ôm ghì tôi vào ngực. Tôi thở mạnh và nhận thấy mùi vị quen thuộc từ ngày xưa, mằn mặn, thơm thơm. Mùi thơm từng ấp ủ tôi từ cái ngày tôi chưa khôn lớn. Giờ thì lớn rồi, ông ạ, trung sĩ rồi… Ít phút sau, ông xuống thuyền trở về đất liền trước khi trên đảo lại có một trận đánh mới. Tôi chưa muốn theo ông về phép ngay. Lẽ nào tôi có thể rời đảo giữa kúc ác liệt này.
          Hai tuần sau, tôi được lệnh di phép.
          Đối với người lính trong chiến tranh, những chuyến đi phép hầu như không nằm trong quy chế nữa. Đôi khi nhớ nhà, thì mong có phép. Mong, là để kháo nhau cho đỡ nhớ nhà thôi. Nguôi nhớ rồi lại tiếp tục đánh đấm. Nếu như tự dưng có anh lính nào ở đảo được cấp trên báo cho đi phép, thì lại bần thần không muốn tạm biệt đồng đội.
          Tôi hơi ngỡ ngàng khi cấp trên cho mình đi phép, theo yêu cầu của chị Hoàn. Nghe đâu chị Hoàn vừa gửi thư cho đảo trưởng. Nhớ chị Hoàn lắm, nhưng lúc này tôi thấy mình khăng khít với các anh ở đảo quá. Anh lính mới, sau chiến dịch vừa qua đã trở thành một người lính chiến thực thụ. Anh đến bên tôi, nói:
- Ngày mai trung sĩ về phép đấy nhé. Rồi ra chong chóng, không kẻo mọi người lại nhớ.
          Tôi nhìn chỗ vạt áo nám đen của anh. Là do khói súng nó nám vào đấy. Anh lắc lắc tay tôi:
- Mai mang quân hàm, quân hiệu, huân chương, huy chương cho đàng hoàng. Người ta sẽ đưa Buồm Nhỏ xuống tận bến thuyền nhé.
          Tôi nhận thấy, anh xưng hô với tôi thật giống anh Ngân ngày trước.
- Về quê, phải thật chững chạc nhé.
          Nói rồi anh ra bồn hoa chọn những bông hoa đẹp nhất, ưng ý nhất, kết thành vòng, quàng lên cổ tôi.
          Mấy anh khác bắt đầu xúm quanh.
- Trung sĩ, vui quá!
          - Về phép càng phải có tư thế.
          - Xin bắt tay Buồm Nhỏ cái nào!...
          Tôi bắt tay tất cả các anh, lần lượt ôm lấy cổ từng anh.
- Về quê nhớ kể hết các chiến công cho đất liền nghe nhé.
          Các anh cười rất vui. Tôi cứ qua hết tay anh này đến tay anh khác. Nắm những bàn tay nhau mà lắc lia lịa, dù rằng mãi sáng mai mới có cuộc chia tay…
          Cho đến rõ khuya các anh mới đi ngủ. Tôi vốn thức khuya, đêm nay còn muốn thức khuya hơn. Ngày mai tôi đã tạm xa các anh rồi.
          Buổi sớm mai. Tôi dậy sớm hơn mọi hôm, sớm hơn mọi anh lính khác. Tôi ra chỗ bồn hoa, vì muốn nhìn thật lâu, thật nhiều hơn nữa mảnh đất tôi sống bấy lâu nay, xứ đảo tôi đi lại dọc ngang bấy lâu nay, trước khi lên đường đi phép.





Đoạn kết    


- Nhưng, chuyến đi phép của Buồm Nhỏ không bao giờ thực hiện được. Như Hoàn biết đấy, Buồm Nhỏ hy sinh ngay trong buổi sáng sớm, lúc sắp sửa đi phép…
          Giọng người sĩ quan chỉ huy bộ đội đảo Mê trầm xuống, cảm động. Bây giờ Hoàn mới có dịp nhìn kỹ anh. Đó là một người người lính trạc gần ba mươi tuổi, có gương mặt đen xạm, khắc khổ. Anh là người có tuổi đời cao nhất trong số các anh lính đang có mặt trên Hòn Mê. Lâu nay mọi người gọi anh bằng cái tên thân mật “Đảo trưởng”. Suốt thời gian kể những chuyện về Buồm Nhỏ, đôi mắt anh luôn biểu hiện một tình cảm đặc biệt đối với chú mèo đã hy sinh. Điều ấy khiên Hoàn càng nghe càng xúc động.
          Tám năm đã trôi qua, kể từ cái ngày Hoàn vui mừng, hồi hộp chuẩn bị đón Buồm Nhỏ về phép ấy. Bây giờ, Hoàn đang là sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Cô ra đảo Hòn Mê để tìm thêm tài liệu viết luận văn tốt nghiệp, và cũng để được hiểu thêm về chú mèo mà ngày xưa mình gửi tặng hòn đảo anh hùng này.
Gặp người lính đảo nào Hoàn cũng hỏi thăm về Buồm Nhỏ. Và người lính đảo nào cũng kể về Buồm Nhỏ với một tình cảm thật hồ hởi. Cứ như là họ đã sống và chiến đấu cùng người bạn tuổi thơ của cô vậy. Họ còn cho cô xem cả những tờ báo tường lính ta làm từ hồi Buồm Nhỏ là lính ở đây, hiện lưu giữ trong nhà truyền thống của đảo. Hoàn nghe các anh lính đảo kể những chuyện mang mầu sắc huyền thoại về Buôm Nhỏ với sự biết ơn tận đáy lòng. Nhưng chỉ khi được gặp đảo trưởng, được nghe anh nói về Buồm Nhỏ, Hoàn mới thực sự cảm động, như được thấy lại người bạn thân yêu thời thơ ấu của mình…
Hoàn buột miệng hỏi:
- Anh là…?
          - Tôi là người lính đầu tiên được thấy Buồm Nhỏ diệt chuột sau khi đã bị mất một chân. Dạo ấy, tôi vừa đặt chân tới đảo, còn bỡ ngỡ. Sự có mặt của Buồm Nhỏ động viên chúng tôi rất nhiều.
          Hồi thơ ấu, ở làng chài quê nhà, Miu sống với ông, bà, bố, mẹ và với Hoàn như một đứa em. Rồi ra đảo Hòn Mê này, Miu đã có tên là Buồm Nhỏ, và có thêm thật nhiều người thân yêu. Hoàn cảm động nghĩ về quãng đời đã qua, từ Miu đến Buồm Nhỏ. Và cũng nghĩ đến những người bạn thân thiết của Buồm Nhỏ trên Hòn Mê này, đã ngã xuống, như anh Ngân. Cùng với họ, Buồm Nhỏ đã trở thành bất tử…
Hoàn cùng đảo trưởng đã tới bồn hoa trước cao điểm Lô Cốt. Đảo trưởng đến bên một khóm hải đường có những bông hoa cánh hồng tươi dầy dặn. Anh khẽ vuốt ve đám lá xanh, rồi nói tiếp:
- Chúng tôi đặt Buồm Nhỏ nằm ở đây, ngay dưới gốc cây hải đường này. Mấy cậu lính trẻ kháo nhau rằng từ ngày ấy, hoa ở đây bỗng đẹp hơn trước. Tôi cũng cảm thấy như thế.
          Hoàn đứng lặng bên bồn hoa. Một nỗi xúc động thật thiêng liêng cứ trào dâng mãi trong lòng cô. “Buồm Nhỏ ơi! – Hoàn thầm gọi – Em thật xứng đáng là một chiến sĩ của hòn đảo anh hùng này!” Biết Hoàn còn đưa tay lên lau khoé mắt, đảo trưởng không nói gì thêm nữa. Trước khi Hoàn về đất liền, anh mời cô đi thăm thêm một số cao điểm nữa trên đảo Hòn Mê.
          Hoàn nghĩ, sao mà lạ lùng, hồi mới vào học năm thứ nhất, cô tình cờ được đọc bài thơ Đời cây sang sang trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà thơ đã ví người lính đảo với cây sang sang, rất cảm động, nhất là khổ kết, đến giờ cô vẫn còn nhớ:
Mùa hạ xưa có anh lính bị thương
Anh tựa gốc cây, máu amh chảy xuống
Nay thu về, lá cây đỏ lấp lánh
Đỏ thấm mây xanh, như hoa nở trên trời...
Trên đường đi thăm một số cao điểm trên đảo, Hoàn lại nhớ tới Buồm Nhỏ, và cũng nhớ tới bài Đời cây sang  sang. Đường đi lên dốc dốc. Hoa dẻ thơm quanh quất, tiếng chim cu ghì gọi nhau trầm buồn như một nỗi nhớ thương. Chưa đến mùa thu, những cây sang sang còn giấu màu đỏ trong thân gỗ. Hoàn thấy đảo đá xanh tươi và hùng vĩ quá. Nhưng lòng cô thầm mong sẽ được đến Hòn Mê vào mùa thu, để được thấy đảo đẹp hừng lên trong màu lá sang sang.  
Hôm chia tay các chiến sĩ Hòn Mê, Hoàn đã đọc tặng các anh bài thơ Buồm Nhỏ. Bài thơ cô viết trong đêm hôm trước ngày tạm biệt đảo, cho đến bây giờ vẫn được lưu truyền:
                    Đi từ thơ ấu của tôi
               Mà qua hết những xa xôi bến bờ
                    Nào hay Buồm Nhỏ bây giờ
               Đưa tôi về quãng ngày xưa của mình

                    Tôi tin Buồm Nhỏ, tôi tin
               Biển còn giới hạn, trái tim vô cùng
                    Tôi thương Buồm Nhỏ, tôi thương
               Một thơ ấu mấy năm trường gian lao
                                      
                    Tôi yêu Buồm Nhỏ, tôi yêu
               Một mỏng mảnh chứa rất nhiều lớn lao
                    Buồm Nhỏ như giấc chiêm bao
               Đời dầu dãi vẫn ngọt ngào tuổi thơ...

                                       Quảng Bá, cuối thu năm 1977.